
Tôi nghĩ, lính biển đảo, dân biển đảo cần ở thi ca một cái nhìn gần với cuộc sống chất chứa gian khổ và dũng cảm của mình để từ đó những trang thơ chân thực đầy vốn sống và nghệ thuật trở thành cây phong ba của họ.
Theo tôi, không phải đợi khi Trung Quốc có những hành động gây hấn trên biển Đông thơ ca về biển đảo mới xuất hiện. Từ lâu rồi, thời phong kiến ở Việt Nam đã có những bài thơ, câu thơ viết về biển Đông gắn với chủ quyền lãnh thổ của đất nước trong đó không thể không kể tới các thi phẩm Di luân hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa biển Di Luân), Linh Giang hải tấn (Cửa biển sông Gianh), Nhật Lệ hải tấn (Cửa biển Nhật Lệ) của vua Lê Thánh Tông; hai câu mang tầm vóc “chiến lược biển”: Vạn lý Đông minh quy bả ác/ Ức niên Nam cực điện long bình (Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình) của Trạng nguyên, Thượng thư Bộ Lại thời Nhà Mạc Nguyễn Bỉnh Khiêm…
Thời hiện đại, chỉ tính từ năm 1954 đến 1988 (trong đó có mấy mốc thời gian cần chú ý: 1954 – 1964, miền Bắc hòa bình sau kháng chiến chống Pháp; 1964 – 1975 cả nước ở trong tình trạng chiến tranh chống Mỹ; 1974: Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa; 1988: Trung Quốc lại sử dụng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma và một số đảo khác ở Trường Sa của Việt Nam) một số nhà thơ nổi tiếng ở nước ta cũng có những thi phẩm về biển được chú ý như Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận; Biển của Xuân Diệu; Biển của Hoàng Trung Thông; Đảo của Văn Cao; Sóng của Tế Hanh; Cồn Cỏ của Hải Bằng; Cô gái Bạch Long Vỹ của Xuân Thiêm; Thuyền và biển, Sóng của Xuân Quỳnh; Trường ca Biển của Hữu Thỉnh; Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi ở đảo Thuyền Chài, Thơ tình người lính biển của Trần Đăng Khoa; Buồm nâu biển biếc của Anh Ngọc; Trường Sa hành của Tô Thùy Yên…
Đặc biệt, khi biển Đông có dấu hiệu nổi sóng và thực sự nổi sóng bởi những toan tính và hành động lấn chiếm của thế lực bành trướng Trung Quốc thì biển đảo thu hút mạnh mẽ những người làm thơ. Hàng loạt bài thơ ra đời, đậm chất sử thi với âm hưởng chủ yếu là hào hùng khẳng định chủ quyền Tổ quốc, khích lệ lòng yêu nước nồng nàn. Trong khuôn khổ một bài viết không dài khó kể hết tác giả và tác phẩm viết về biển đảo trong thời gian gần đây, chỉ xin sơ bộ điểm qua. Có thể kể đến các bài thơ ít nhiều được bạn đọc chú ý như Hào phóng thềm lục địa của Nguyễn Thanh Mừng, Mộ gió của Trịnh Công Lộc, Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến; Tổ quốc – cánh sóng của Huệ Triệu; Tổ quốc gọi tên của Nguyễn Phan Quế Mai; Tiếng chuông chùa giữa đại dương của Phan Hoàng; Gió nhà giàn của Nguyễn Quang Hưng; trường ca Người sau chân sóng của Lê Thị Mây; trường ca Tổ quốc – Đường chân trời của Nguyễn Trọng Văn; tập thơ Trường Sa ơi Trường Sa của Lưu Thị Bạch Liễu… Tác giả bài viết này, Nguyễn Hữu Quý cũng có đóng góp một số bài thơ về biển đảo như Làng đảo, Đất Trường Sa và trường ca Hạ thủy những giấc mơ...
Trong cuộc tọa đàm Thơ và chủ quyền biển đảo của Tổ quốc do báo Văn Nghệ tổ chức gần đây, có ý kiến cho rằng thơ về biển đảo còn quá ít ỏi (nhà thơ chỉ dẫn chứng 5 tác giả trong đó mình được nêu lên đầu tiên). Tôi cho rằng, ý kiến đấy phiến diện, do người phát biểu chưa có điều kiện bao quát hết các tác phẩm viết về biển đảo. Ngoài những dẫn chứng thơ về biển mà tôi biết còn rất thiếu đã nêu trên tôi xin dẫn chứng thêm những sự kiện và ấn phẩm tiêu biểu về đề tài này. Năm năm trở lại đây, tạp chí Văn Nghệ Quân Đội đã phối hợp với Quân chủng Hải quân tổ chức 2 trại viết tập trung cho đề tài biển đảo và chiến sỹ hải quân. Hàng trăm bài thơ cùng với nhiều truyện ngắn thuộc đề tài trên đã ra đời từ các trại viết này, trong đó có những bài thơ khá nổi tiếng như Hào phóng thềm lục địa của Nguyễn Thanh Mừng; Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến… Cũng tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 2002 phối hợp với Nhà xuất bản quân đội nhân dân ra ấn phẩm Trường Sa và năm 2009 ra tiếp cuốn sách Đường ra biển lớn tập hợp nhiều tác phẩm văn xuôi và thơ về biển đảo. Có thể kể tên một số nhà văn, nhà thơ góp tác phẩm trong 2 ấn phẩm trên như Lê Thành Nghị, Phạm Đình Ân, Cao Duy Thảo, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Trí Huân, Hồng Diệu, Chu Lai, Nguyễn Đức Mậu, Khuất Quang Thụy, Duy Khán, Nguyễn Bảo, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Đỗ Tiến Thụy, Lê Mạnh Thường, Đoàn Hoài Trung, Vũ Hồng, Hồ Kiên Giang, Vân Hạ, Sương Nguyệt Minh, Phùng Văn Khai, Nguyễn Thế Hùng… (Văn); Phạm Ngọc Cảnh, Thúy An, Hà Đình Cẩn, Ngô Xuân Hội, Dương Thuấn, Vũ Quần Phương, Phan Tùng Lưu, Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Hữu Quý, Trần Anh Thái, Hữu Thỉnh, Hoàng Vũ Thuật, Vương Trọng, Lê Văn Vọng, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Thanh Mừng, Lê Mạnh Tuấn, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Đương, Nguyễn Văn Hiếu, Thai Sắc, Nguyễn Quyết Thắng, Võ Văn Luyến, Đỗ Vinh, Mai Nam Thắng… (Thơ).
Khi Trung Quốc ngang ngược hạ đặt giàn khoan HD 981 ở thềm lục địa nước ta thì không ít bài thơ dạt dào tình yêu nước, bừng bừng lòng phẫn nộ được giới thiệu liên tục trên báo Văn Nghệ, Văn Nghệ Quân Đội, Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân… và khá nhiều trang báo khác của trung ương và địa phương. Có cảm giác như không khí thơ thời chống Mỹ trở lại mà đặc điểm lớn nhất của nó là sự cộng hưởng giữa người cầm bút với xã hội rất lớn. Người ta tạm quên đi những riêng tư, bức xúc phiền muộn của cuộc sống đời thường để hướng tới cái chung dân tộc, cộng đồng mà cốt lõi là lòng yêu nước, sự chia sẻ với những người lính người dân đang trực tiếp bám biển đảo, giữ biển đảo, phần chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Theo tôi, thơ về biển đảo vừa qua phần lớn khai thác yếu tố sử thi và chất lãng mạn từ biển. Rất nhiều người cầm bút tựa vào lịch sử phổ thông quen thuộc để lập tứ, thiết lập cấu trúc, dàn dựng hình ảnh cho bài thơ như Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến, Tổ quốc gọi tên của Nguyễn Phan Quế Mai; Tổ quốc cánh sóng của Huệ Triệu… Thơ kiểu này rất hào sảng, mang tính cổ động cao nhưng tôi nghĩ là không mới và rất dễ sa vào sự sáo mòn: Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa và Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa/ Đã mười lần giặc đến tự biển Đông/ Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử/ Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng … (Tổ quốc nhìn từ biển – Nguyễn Việt Chiến); Qua bão giông dạy ta biết yêu thương/ Hai tiếng “đồng bào” dạy ta điều nhân nghĩa/ Quân thù đến/ Ta đánh cho kinh hồn bạt vía/ Kìa ải Chi Lăng, đây sóng Bạch Đằng (Đảo lại đứng hát ru – Phạm Việt Đức); Người binh phù lấy sóng nước làm sa trường/ Thuyền nan làm da ngựa/ Da rần rần chạm những ngự phê/ Tai âm vang nhiều chỉ dụ/ Vua Lê/ Chúa Nguyễn/ Nhà Tây Sơn/ Châu bản triều đình Huế... (Tòa án Biển Đông – Nguyễn Thanh Mừng)… Tính cổ động như con dao hai lưỡi, nó có thể khích lệ được công chúng nhưng nếu không cao tay thì rất dễ đưa thơ vào sự hời hợt trùng lặp. Không ít bài thơ viết về biển đảo vừa qua đã trùng lặp về chi tiết lịch sử và truyền thuyết như cọc Bạch Đằng, ải Chi Lăng, gò Đống Đa…, Mẹ Âu Cơ đưa năm mươi người con lên rừng, Cha Lạc Long Quân đem năm mươi người con xuống biển…
Một dạng viết khác là thích đưa và tán những hình ảnh đẹp đẽ nên thơ của biển đảo, của Trường Sa như hoa muống biển tím, hoa bàng vuông, cây phong ba, những con sóng… Tả cảnh nói tình là một thủ pháp quen thuộc của thi ca nhưng để câu thơ đạt được hiệu quả cao là điều không dễ. Thời chống Mỹ trong thơ hay xuất hiện hình ảnh những mầm lá, bông hoa, tiếng chim trên điểm chốt, trọng điểm, tán rừng Trường Sơn… để nói lên sức sống, lòng lạc quan của dân tộc, con người Việt Nam. Thơ về biển đảo bây giờ chắc cũng cần như thế nhưng đòi hỏi một cấp độ cao hơn bằng cách diễn tả mới mẻ.
Cuộc sống của những người lính, người dân bám biển cực kỳ gian khổ hiểm nguy. Tôi đã từng ra Trường Sa, tôi biết, ở đây nước quý như máu và nỗi nhớ đất liền, nhớ người thân không bao giờ nguôi. Cảm giác cô đơn trống trải không phải là không có. Con người trở nên bé nhỏ vô cùng trước trời biển mênh mang nhất là khi sóng to gió lớn tràn qua đảo, nhà giàn. Đã có những hi sinh đầy xúc động của người lính, người dân bám biển. Vì chủ quyền đất nước, chiến sĩ và nhân dân của ta chấp nhận cuộc sống nhiều nguy nan này. Chấp nhận, chứ không phải tự nguyện đâu nhé là một thực tế nên thấu hiểu và chia sẻ với những người lính, người dân trên biển đảo.
Hành trình ra biển lớn đầy thử thách cam go và tốn rất nhiều, rất nhiều mồ hôi xương máu của dân tộc. Ở Lý Sơn, Quảng Ngãi từ thời phong kiến đã có câu ca dao: Hoàng Sa trời nước mênh mông/ Người đi thì có mà không thấy về. Thấm thía chất bi tráng ấy nên rất nhiều người khi đọc Mộ gió của Trịnh Công Lộc đã không cầm nổi nước mắt: Mộ gió đây,/ đất thành xương cốt/ Cứ gọi lên là rõ hình hài/… Mộ gió đây/ những phút giây biển lặng/ Gió là tay ôm ấp bến bờ xa/ Chạm vào gió như chạm vào da thịt/ Chạm vào nhói buốt Hoàng Sa… (Mộ gió – Trịnh Công Lộc). Có những chiến sĩ của ta ở Trường Sa đã đổ máu vì đạn pháo của quân bành trướng Trung Quốc. Khi sự việc ấy xảy ra trên biển Đông có rất nhiều người trong chúng ta không biết. Và nỗi đau dường như nhân lên gấp bội cùng với niềm tự hào về 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã ngã xuống ở Gạc Ma khi sự thật được công khai: Trường Sa ư với ngày thường xa thật/ Đảo ở đâu tôi có hỏi đâu mà/ Điều phẫn uất là chỉ khi máu đổ/ Đảo mới gần mới thật đảo của ta (Gửi quần đảo Trường Sa – Đỗ Nam Cao).
Người lính hi sinh để lại đằng sau họ những chất chồng đau thương, những bộn bề vất vả của gia đình, người thân. Đừng bao giờ lãng quên điều đó như lời bài thơ Mắt sóng Trường Sa của Nguyễn Quang Hưng: Mắt người còn mãi ngang lưng chiều thu/ Thổi đẫm lời nói thầm tóc xanh con nhỏ/ Hiện vào những chục năm mãi mãi người vợ trẻ/ Nghẹn trong cái nuốt nước khó khăn của cha/ Ngân vọng câu kinh mẹ già/ Con không về vá lại mái nhà/ Con ở lại vòm xanh hóa mưa gọi cây mọc/ Con trong cát đội bờ trên vai đá…
Ngay cuộc sống đời thường ở Trường Sa bây giờ cũng có cái gì đó bất thường. Bất thường bởi biển Đông chưa êm ả mà luôn dậy sóng, luôn ẩn chứa những nguy cơ xung đột chiến tranh do Trung Quốc gây ra. Ta thấy những nhói buốt của Đặng Huy Giang khi nhìn những em bé ở đảo Sinh Tồn thật sâu sắc: Những em bé ở đảo Sinh Tồn/ Áo xanh quần trắng/ Bảy tuổi đầu đã hát “Khúc quân ca…”/ Bảy tuổi đầu đã “quê hương gìn giữ/ Bảy tuổi đầu đã mơ làm chiến sĩ…//Nghe các em hát lòng chúng tôi quặn thắt/ Sóng đập Trường Sa hay sóng đập lòng người? (Những em bé ở đảo Sinh Tồn – Đặng Huy Giang)…
Tôi nghĩ, lính biển đảo, dân biển đảo cần ở thi ca một cái nhìn gần với cuộc sống chất chứa gian khổ và dũng cảm của mình để từ đó những trang thơ chân thực đầy vốn sống và nghệ thuật trở thành cây phong ba của họ. Có khái quát xa xôi đến bao nhiêu thì cái đích của thi ca vẫn phải là tâm hồn người đọc. Để lắng lại hồn dân tộc trong hồn mỗi người thơ về biển đảo nên có chiều sâu. Không phải ai đã từng đến Trường Sa, Hoàng Sa đều làm thơ về biển đảo hay cả và ngược lại. Có những người chưa ra Trường Sa vẫn có những câu thơ về biển đảo ấn tượng. Xin dẫn chứng: Hạnh phúc lớn lao ở cuối mỗi hành trình/ Từng ngọn gió cũng ùa lên cập bến/ Dân tộc tôi khi tìm về với biển/ Gặp cánh buồm căng bát ngát tự do (Thơ Anh Ngọc); Đảo nhỏ quá nói một câu là hết/ Có gì đâu chỉ cát với chim thôi/ Cát và chim và thêm nữa chúng tôi… (Thơ Hữu Thỉnh). Tuy vậy, tôi vẫn cứ nghĩ rằng nếu những thi sĩ tài danh như các anh mà được một lần ra Trường Sa chắc chắn sẽ viết hay hơn, thực hơn, bi tráng hơn rất nhiều những gì đã có.
Có rất nhiều ý tứ, chi tiết và cả ngôn ngữ thơ nữa nằm chính ngay trong cuộc sống của những người giữ biển can trường.
Đồng Xa, tháng 7 năm 2014