Làm sao tôi có thể quên sự động viên, ưu ái của anh Thế Vũ?
Năm 1991, tôi bắt đầu viết bài gửi đăng báo Thanh Niên. Ở Vũng Tàu, vài năm tôi mới ra Hà Nội một lần, cũng rất ít khi lai vãng Sài Gòn, hầu như chẳng quen biết ai ở các báo. Cho nên khi cộng tác với Thanh Niên cũng như với những tờ báo khác, tôi chỉ biết có mỗi một việc là cho bản thảo vào phong bì, dán tem, đề địa chỉ tòa soạn rồi mang ra bỏ vào thùng thư của bưu điện.
Sau vài ba bài được in, tôi nhận được thư Thế Vũ. Từ đó, mỗi lần gửi bài cho Thanh Niên, tôi ghi địa chỉ người nhận ở ngoài phong bì: Thế Vũ, báo Thanh Niên, 248 Cống Quỳnh… Đã rất nhiều bì thư như thế gửi đi mà vẫn chưa một lần gặp Thế Vũ. Đến cuối năm đó (tôi nhớ không thật chính xác), khi được giải cuộc thi viết tiểu phẩm châm biếm của báo này, tôi mới lên tòa soạn để… nhận tiền thưởng! Nhận xong cả hai giải: giải Nhất và giải Ba, tôi lẳng lặng đi tìm Thế Vũ.
Gặp nhau, anh kéo tôi ra ngồi quán cà phê cóc ở ngoài cổng tòa soạn. Biết tôi lên nhận giải, anh nói luôn:
– Ở Vũng Tàu còn có tay Lý Chương được giải Ba đấy, sao cậu không lĩnh luôn cho nó một thể?
Tôi cười cười:
– Dạ dạ… Xong rồi. Chẳng giấu gì anh, Lý Chương cũng là bút danh của em.
Thế Vũ hơi bất ngờ, nhưng chỉ nhếch mép cười hóm. Nụ cười làm giãn ra gương mặt hơi kho khó của anh. Cười Ruồi giải nhất. Lý Chương giải ba. Sau này, cũng trên báo Thanh Niên, tôi còn ký nhiều bút danh linh tinh khác cho mục tiểu phẩm châm biếm như Văn Khà, Cử Giật…
Gần mười năm gian nan nhất trong đời, tôi và vợ con sống chủ yếu nhờ nhuận bút của những tờ báo, trong đó có Thanh Niên. Làm sao tôi có thể quên sự động viên, ưu ái của anh Thế Vũ?
Mỗi tháng tôi đi xe đò từ Vũng Tàu lên Sài Gòn một lần. Xuống bến xe Văn Thánh, thuê hẳn một chiếc xích lô vào thành phố, nghễu nghện đến các tòa soạn báo để “thu hoạch” nhuận bút. Xích lô dừng ở cổng tòa soạn, tôi vào thẳng phòng tài vụ, ký nhận tiền. Xong, lại lẳng lặng đi ra. Mười năm ấy, trừ những nhân viên kế toán, thủ quỹ, hầu như không có ai trong các tòa soạn biết mặt tôi. Chiếc xích lô thường dừng lại ở điểm cuối là 248 Cống Quỳnh. Ở đây, tôi trả tiền thuê xe để ngồi lại lâu lâu với Thế Vũ. Anh giữ chân thư ký tòa soạn nên rất bận. Nhiều hôm đến trước cửa phòng làm việc, nhìn vào thấy anh đang cắm cúi gạch gạch xóa xóa. Nhưng lần nào ngẩng lên nhận ra tôi, anh cũng bỏ bút, kéo tôi ra cổng uống ly nước. Anh khuyến khích tôi viết bài thường xuyên, giục tôi gửi cả truyện ngắn cho báo. Một lần, nể Thế Vũ, tôi ngồi nhà viết luôn một mạch xong cái truyện “Nhà dượng Năm”. Báo Thanh Niên in. Báo Văn Nghệ in. Tuyển “101 truyện ngắn hay Việt Nam” (tập 3) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn cũng chọn in truyện này. Khi tập truyện “Tuyệt đối yên tĩnh” của tôi được xuất bản, Thế Vũ viết bài giới thiệu khá dài trên Thanh Niên. Anh điểm lại nhiều truyện, khen truyện này truyện kia, trong đó không quên nhắc “Nhà dượng Năm”. Những nhận xét kỹ lưỡng, tinh tường. Nhưng để lại ấn tượng đậm nhất – và thực lòng làm cho tôi sướng nhất, lại là cái nhan đề của bài viết: “Sự yên tĩnh của bão”.
***
Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thông tin chưa được rộng rãi cởi mở như bây giờ. Vụ lùm xùm ở tạp chí (hay phụ trương tạp chí?) văn nghệ Cánh Én gì đó, cụ thể đầu đuôi ra sao, tôi không được rõ. Chỉ được đọc mấy bài báo phê phán Thế Vũ. Giọng điệu các ông này gay gắt quá. Lập trường tư tưởng Thế Vũ thế này thế kia. Rồi người ta “tua” lại cả nhân thân anh để truy tìm lý do của những sai lầm, lệch lạc. Tôi nhớ có những so sánh rất “choáng”: lúc chúng tôi (tức những người phê phán Thế Vũ) tối mặt tối mũi chiến đấu hy sinh ngoài chiến trường thì anh ta (tức Thế Vũ) ung dung tiệc sớm tiệc chiều trong những tòa building ngất ngưởng… Khốn khổ! Lúc ấy tôi nào đã biết gì về Thế Vũ. Chỉ nghe mang máng anh viết truyện, là cây bút nổi lên ở miền Nam mấy năm trước giải phóng. Một trong những truyện của anh được mọi người hay nhắc đến có tên “Những vòng hoa ngụy tín”. Nhưng truyện này tôi cũng chưa đọc dòng nào.
Thông tin một chiều đã khiến tôi ngạc nhiên khi lần đầu gặp anh. Bé nhỏ, hiền lành. Áo quần đơn sơ. Gương mặt cũng có vẻ cũ kỹ, nghèo khó và nhẫn nhịn. Tóm lại, một người đàn ông rất bình thường, hoàn toàn có thể lẫn vào đám chúng sinh túi bụi trên hè phố. Ở quán cà phê cóc, thỉnh thoảng tôi hỏi anh chuyện này chuyện kia. Thế Vũ nửa nghe nửa nghĩ đâu đâu, trả lời tiết kiệm, chả mấy khi hỏi lại. Về đọc “Những vòng hoa ngụy tín” và mấy truyện khác, tôi mới vỡ lẽ: Hóa ra những gì đẹp đẽ, sâu sắc nhất, người đàn ông dễ lẫn vào mọi người ấy đã trút cả vào tác phẩm của mình mất rồi. Hơn thế, anh còn biết làm cho chúng chói lên một vẻ riêng không thể lẫn. Khi biết thêm vị đắng ngắt của thân phận một anh lao công đào binh mà anh đã phải nếm trải trong quá khứ, tôi quen dần với sự trầm lặng của Thế Vũ. Dường như anh cũng đã quên đi những ngày bị “đánh” tơi tả trước khi dạt vào Sài Gòn. Ừ, tài năng ấy, tư cách ấy, vướng bận mãi làm gì với đám bọt bèo trôi nổi trên đường?
Nhiều năm sau, tình cờ gặp lại một số “nhân vật” từng cao giọng xỉa xói Thế Vũ hồi nào, thấy họ nhìn khác, nghĩ khác, uốn lưỡi khác, quả thật tôi không biết nên vui hay nên buồn? Nói cho cùng, đời ai cũng có những khúc đoạn thật đáng thương, anh Thế Vũ nhỉ?
***
Năm 1994, tôi bị sao “quả tạ” rơi trúng đầu. Một tai nạn văn chương không đâu ập xuống. Không hề có chủ định, nên cũng không mảy may lường trước. Khi đụng chuyện thì tôi phải bỏ Vũng Tàu tháo chạy. Một mình một ngựa (xe Cup nghĩa địa) đang đêm phóng lên tị nạn ở Sài Gòn. Sáng hôm sau mò đến tìm Thế Vũ.
Tôi nhớ tòa soạn báo Thanh Niên hồi ấy có một cái phòng họp khá rộng ở ngay tầng trệt, gần cổng ra vào, tường lắp kính, bên trong nhìn ra chắc rõ, chứ bên ngoài nhìn vào hơi lóa. Tôi còn đang lơ ngơ ngoài hành lang thì Thế Vũ đẩy cửa bước ra. Anh bảo tôi:
– Mọi người vừa nhắc đến cậu xong.
Thấy tôi ớ ra, anh nói luôn:
– Trên này ầm ĩ lên rồi. Đọc báo chưa?
Tôi giật mình. Chuyện của tôi còn lên cả báo nữa sao?
Thế Vũ nghiêm giọng:
– Chạy ngay ra sạp báo ngoài phố, kiếm tờ báo ấy, số ấy… Xong về đây.
Thế Vũ quay vào họp tiếp. Tôi ra phố tìm mua tờ báo theo lời anh.
Tờ báo nọ dành hẳn cho tôi mấy trang. Giật tít lớn ra bìa. Kín 2 trang ruột là những lời khép tội và thóa mạ. Tóm lại, có cảm giác như số báo đặc biệt dành cho mình. Của đáng tội, nhờ vụ này mà cái tên tôi có người tò mò biết đến!
Nhưng lúc ấy thì xanh mặt. May mà ở Sài Gòn, tôi còn những người bạn như Thế Vũ để đi lại. Vẻ trầm tĩnh và từng trải của anh trấn an tôi. Anh không nhắc lại chuyện lùm xùm của tôi, ý như bảo tôi quên nó đi. Cái gì đến đã đến rồi. Thái độ cần thiết của mình là biết chấp nhận. Đấy cũng là bài học rút ra từ chính cuộc đời của anh chăng?
***
Lần lữa mãi, cuối cùng cũng có dịp đến thăm Thế Vũ tại nhà riêng. Không quen đường Sài Gòn, nên tôi rủ Cao Xuân Sơn đi cùng. Sơn cũng là chỗ quen biết và rất quý anh Thế Vũ. Dịp đó Thế Vũ đã lâm bệnh trọng. Sức khỏe của anh chỉ tương đối hồi phục sau một đợt điều trị trong bệnh viện.
Sơn đèo tôi trên xe máy đi một chặng khá xa mới tới khu chung cư của Thế Vũ. Gặp nhau, chưa kịp mừng, mặt tôi đã méo xẹo. Cái túi nhỏ đựng toàn bộ giấy tờ quan trọng của tôi đã rơi mất đâu đó trên đường. Chứng minh nhân dân, thẻ nhà báo, thẻ nhà văn, bằng lái xe… Trong túi có cả điện thoại di động, cùng với chiếc phong bì đựng khoản tiền của chi nhánh nhà xuất bản Kim Đồng “tặng” cộng tác viên thân thiết nhân dịp Tết.
Bữa nhậu trưa đó ở nhà Thế Vũ kém vui vì sự cố mất đồ của tôi. Tôi cố làm ra vẻ “chuyện nhỏ”, nhưng Thế Vũ lại day dứt: vì đến thăm anh mà tôi gặp chuyện xui xẻo! Chị Hà, vợ anh, không ngồi cùng chúng tôi, chỉ chạy ra chạy vào tiếp “mồi” cho mấy anh em, biết chuyện cũng tỏ ra ái ngại.
Nhưng hóa ra số tôi còn son lắm! Chiều, khi quay về chỗ nghỉ, một người bạn biết chuyện, hỏi sao không thử gọi vào số máy di động ở trong cái túi đã mất? Tôi bảo: Cao Xuân Sơn gọi ngay khi phát hiện mất đồ, nhưng gọi mấy lần đều không có người bắt máy. Người bạn đó liền mở máy của mình ra gọi lại. Một lần. Hai lần. Đến lần thứ ba, anh bỗng ra dấu cho tôi im lặng. Hóa ra có người đầu dây đằng kia trả lời. Người ấy cho địa chỉ, bảo chúng tôi tới ngay!
Trời ơi! May mắn cho tôi làm sao! Nơi hẹn của người ấy chỉ cách chỗ chúng tôi đang ở nửa con phố ngắn, đi bộ vài phút là tới.
Cho đến hôm nay, tôi vẫn không quên được người thanh niên dễ mến ấy. Không quên lúc anh ta lững thững xách cái túi của tôi ra cổng. Anh bảo vì điện thoại của tôi để trong túi nên mãi sau anh mới nghe tiếng chuông. Anh trao túi cho tôi, giục tôi mở ra kiểm tra lại. Tôi vội vàng cảm ơn, rút chiếc phong bì của nhà Kim Đồng cho tôi lúc sáng (mà tôi chưa kịp mở), biếu anh uống cà phê, nhưng anh dứt khoát từ chối.
Tôi gọi cho Thế Vũ, kể lại câu chuyện may mắn hiếm có vừa xảy ra. Thế Vũ mừng lắm. Anh vừa cười vừa ho khẽ trong máy, rồi nói đùa: “Bữa trưa nay ở nhà mình coi như không tính. Hôm nào anh em mình lại ngồi với nhau, cho vui trọn vẹn”.
Tháng 11 năm ấy Thế Vũ ra đi đột ngột. Trước khi quyết định không tiếp tục viết truyện châm biếm nữa, tôi đã kịp gom những mẩu chuyện của mình trên Thanh Niên, in thành tập “99 nụ cười ruồi”. Chỉ kịp gửi sách tặng Thế Vũ, nhưng chưa kịp ngồi “vui trọn vẹn” với anh.
29-11-2013
T.Đ.T