Nhà thơ Xuân Đam, sinh năm 1943; Quê quán Thượng Hiền, Kiến Xương, Thái bình; Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Bình. Ông đã in 7 tập thơ. Mới đây ông vừa cho ra mắt bạn đọc tập Xuân Đam tuyển thập thơ, văn – NXB Hội Nhà văn Việt Nam 2015.
Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu Lời tựa của Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi in trong cuốn sách này.
Nhà thơ Xuân Đam, sinh năm 1943; Quê quán Thượng Hiền, Kiến Xương, Thái bình; Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Bình. Ông đã in 7 tập thơ. Mới đây ông vừa cho ra mắt bạn đọc tập Xuân Đam tuyển thập thơ, văn – NXB Hội Nhà văn Việt Nam 2015.
Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu Lời tựa của Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi in trong cuốn sách này.
Nhà thơ Xuân Đam sinh năm Qúy Mùi (1943), tính theo tuổi âm lịch thì tới năm Ất Mùi này ông bước sang tuổi 73. Tạm lấy ngưỡng tuổi 73 tính trở lại, hẳn người thân và bạn bè đều nhất trí rằng, kể từ giọt mực đầu tiên dành viết ra câu thơ đầu tiên Xuân Đam đã thuộc trọn vẹn về thơ. Thơ với Xuân Đam là một tình yêu, một lý tưởng, một điều thiêng! Bởi thế, ông đã tận hiến đời mình cho tình yêu, lý tưởng và điều thiêng đó! Trong quá trình sáng tạo nhà thơ đã viết ra hàng trăm bài thơ có giá trị, cùng với những bài viết công phu về nghệ thuật thơ văn chữ nghĩa. Ông đã cho in 7 tập thơ.
Bây giờ là tập sách thứ 8: Xuân Đam tuyển tập thơ, văn.
Giọng thơ Xuân Đam là một giọng quê và cơ bản thành tựu xuất sắc nhất, giá trị còn lại đáng kể nhất của thơ ông có thể làm “quà” dâng tặng cho hậu thế thì đó thuộc về thơ lục bát. Lục bát chân quê! Một chất “quê” đặc trưng, tiêu biểu từ cảnh sống, cảnh sắc và biểu độ cảm xúc. Ngay cả đến rượu, loại đồ uống quyến rũ ông như một đam mê cũng là thứ Rượu quê. Tập tuyển này được rút ra, phân bố cục từ tên các tập thơ “rượu” ông từng cho xuất bản. Nghĩa là cái gốc của thơ “Quê” này được tạo ra từ chốn sinh thành, từ một nền nếp sinh hoạt, một tâm huyết máu thịt, một cội nguồn văn hóa.
Cảnh quê, tình quê ùa vào thơ cứ như thể chúng vừa bước ra từ thửa ruộng, vuông vườn, cảnh đời chân thực:
Bấy lâu mới được một rằm
Anh thành trâu lấm về đằm dưới mương
Làng quê tịch mịch khói sương
Mùi bùn ngai ngái còn vương tóc mềm…
Hay như:
Cầm lòng một bát cơm nâu
Dưới chân nước cóng, trên đầu mưa bay
Mẹ tôi như nhánh mạ gầy
Hoá thân làm bát cơm đầy nuôi tôi…
Thơ ấy lấm láp bùn đất đấy mà trong trẻo, hiền hòa, thanh tao đấy. Người của làng quê Việt, cổ xưa và cội rễ là vậy. Mọi điều đều đi ra từ đất, hóa mình trở nên cao quý, thiêng liêng cũng từ đất. Đất – với làng là chiếc nôi đã nuôi nấng hồn thơ Xuân Đam. Là điểm khởi nguyên cũng là điểm quy tụ cuối cùng cảm hứng thơ ông. Đọc bất kỳ trang nào, nẩy ra bất chợt con chữ, câu tứ tươi mẩy óng ánh nào của thơ ông người ta đều như ngửi thấy, sờ nắm thấy mùi đất, màu đất, nhựa đất, hồn đất kết tủa quanh ngôi làng và tạo lập nên nó. Nên vậy, thơ Xuân Đam thường nói về cái nghèo, vất vả, lam lũ, lấm lem, cả những đau thương do thiên tai, địch họa, do những bất công trong đời sống xã hội làng đem lại cho người dân quê nhỏ nhoi, hiền hòa và cam lòng. Bản thể của đất, của làng cũng là vậy chăng? Song đó chắc chắn là sự cam lòng của một năng lực sinh và hóa của đất. Và bởi vậy, hồn thơ ông đã được cất cánh, đã có sức hóa thân cao đẹp trong cõi sống đó.
Thơ Xuân Đam cao quý trong lấm láp đất làng, nhỏ nhoi, cam chịu mà linh hóa trong tính cội rễ nguyên ủy của đất.
Quê người… vắng tiếng cuốc kêu
Nghèo như rơm rạ. Nỗi nghèo ân nhân…
***
Người xưa quả cũng tuyệt vời
Chạm hoa trên đá, để lời trong cây…
***
Lẫn trong màu sắc dân gian
Cánh cò như thế đã ngàn năm nay
Bàn chân như nhánh mạ gầy
Đói no… bấm xuống đất này, người ơi!
Dĩ nhiên, như đã nói, trong phận cảnh đất – làng và con người ấy nỗi buồn đau, sự khắc khoải lo âu không thể không là một tâm trạng – tâm thế. Thơ Xuân Đam mang nặng niềm day dứt, khát khao vì thế: “Muốn sang không bắc được cầu/ Trái tim người khác nằm đau ngực mình…” – “Kêu chi kêu đến hao gầy/ Mấy lần lột vỏ không thay được hồn…”. Những khi ta thấy hồn thơ ông chừng sắp bị kéo chìm đắm xuống, thường lại thấy ngay sức biến cải, thăng hoa đến làm cứu cánh, cứu rỗi. Thấy ông cầm nỗi buồn, chơi thế gian này một cách chơi khá tự tại, hồn nhiên như trẻ nhỏ chơi trò.
Thì vào chơi chợ Bồng Tiên
Không mua gì cả, gặp em rồi về
Tiên Bồng như tỉnh như mê
Cầm con gà đất. Toe toe dọc đường…
Và đây một vẻ tự tại có tầm vóc biết dường nào:
Một đời trăm trận bão giông
Thím tôi bỏm bẻm trầu không, lặng nhìn…
Thái Bình là một tỉnh lúa được bồi tụ từ phù sa sông biển. Bởi lẽ đó mà ta có Xuân Đam – Nhà thơ của đất đai, làng quê, giọng quê. Mà có “giọng nói” nào, “giọng hát” nào mang đầy đủ màu sắc, âm vực thổ ngữ châu thổ sông Hồng hơn chất giọng từ ca dao, dân ca hát chèo. Ấy cũng là chất giọng của thơ lục bát. Xuân Đam đã lớn lên, đẹp lên từ thơ lục bát. Và lục bát Việt thêm một lần được vang lên, tiếp nối trường sinh bởi thơ ông.
Đêm 1/7/2015
Đ.T.K
Chùm thơ Xuân Đam
RẰM
Bấy lâu mới được một rằm
Anh thành trâu lấm về đằm dưới mương
Làng quê tịch mịch khói sương
Mùi bùn ngai ngái còn vương tóc mềm
Ruộng đồng cây cỏ và em
Dường như mơ mộng cùng đêm bao điều
Vầng trăng từ độ Chí Phèo
Còn như bát rượu trong veo cuối vườn
Bờ ao trăng đứng khỏa chân
Có anh cóc tía bất thần nghiến răng
Ta khoe với bạn tình rằng
Ta là thi sỹ nhì nhằng văn thơ
Ta thường sống với mộng mơ
Nửa đời xiêu vẹo bây giờ về đây…
Đêm rằm em mát như cây
Ôm ta như cuộc đời này ôm ta.
NHÂN DÂN
Quản chi chân lấm đầu trần
Mà lo thời thế chai dần nắng mưa
Ngại gì đi sớm về trưa
Mà đau lời dặn người xưa, ai cầm?
Mưa rừng bão biển quanh năm
Củ khoai hạt thóc từ tâm như người
Gặp cơn bom đạn tơi bời
Người như Thánh Gióng đội trời ra đi
Xương tan thịt nát quản gì
Bao con sóng biển đỏ vì máu loang
Cúi đầu lạy tạ hồn làng
Còn dân còn nước còn mang nợ nần
Cúi đầu lạy tạ nhân dân
Núi cao biển rộng mùa xuân đời đời
Nợ dân không trả bằng lời
Đói no bom đạn không rời nhân dân.
HẢI PHÒNG, NGÀY TRỞ LẠI
Gửi cháu Tuấn
Qua Sông Lấp, Ngõ Cấm, vườn hoa Đưa người
Em xuất ngũ về thuê nhà Cầu Tre bếp dầu mì mọt
Thềm đình Lạc Viên bầy cóc nghiến răng kêu trời kêu đất
Kêu gì cũng đến thế thôi!
B52 bùng bùng Sở Dầu, Hạ Lý
Lửa sáng náo loạn có người bảo bom nguyên tử
Anh và em xách súng trường xuống hố cá nhân
Bắn cho bõ căm và bắn
Cái thời nhảy vào lửa không ai tính toán
Giờ đeo trái tim vàng mà câu nói lỡ mồm cũng định đâm nhau
Nay em về
Hoa phượng đỏ như máu người như lửa cháy năm nào
Kính phản quang chói lòa áo quần không thể cộc hơn được nữa
Không tìm nổi dấu tích ngôi nhà lá cọ
Anh đã nằm lại Trường Sơn
Chị vào Nam sinh sống
Ống tiêm bập bềnh cống rãnh
Giật mình còi tàu
Nhớ lúc báo động cứu sạt cứu tràn cứu thương cứu hỏa
Nhớ thành phố nước mặn đồng chua lấm lem dầu mỡ
Cuồn cuộn ngực trần tợp ca rượu như không
Siêu thị Hải Phòng
Của tiền như nước
Em đứng đau vết thương thuở trước
Ngày giỗ anh
Em bái vọng phương nào.
X.Đ
(Rút ra từ tập Xuân Đam tuyển tập thơ, văn – NXB Hội Nhà văn 2015)