Tiếng Việt – Thơ Lưu Quang Vũ

Bài thơ khá dài, song mỗi khổ thơ là một cung bậc cảm xúc vừa chậm rãi như dòng trôi êm đềm vừa sục sôi riết róng, hình ảnh con người Việt hiện dậy từ mỗi ý thơ với tất cả những phẩm chất của mình nhọc nhằn thương đau nhưng cũng kiêu dũng ân tình…Và Tiếng Việt chính là hồn Việt, nhân cách Việt.

vanhaiphong.com– Lấy nền cốt là hình ảnh quê hương, gắn với trục cảm xúc xuyên suốt là tình yêu Tiếng Việt; Lưu Quang Vũ đã tạo ra mạch nguồn ngân rung bất tận về lòng yêu tiếng mẹ đẻ và cũng chính là yêu non sống đất nước của mình. Bài thơ khá dài, song mỗi khổ thơ là một cung bậc cảm xúc vừa chậm rãi như dòng trôi êm đềm vừa sục sôi riết róng, hình ảnh con người Việt hiện dậy từ mỗi ý thơ với tất cả những phẩm chất của mình nhọc nhằn thương đau nhưng cũng kiêu dũng ân tình…Và Tiếng Việt chính là hồn Việt, nhân cách Việt.

Tiếng Việt

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

“Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.

Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.

Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu ?

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya ?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình…

Nguồn: Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002

 

Tư liệu về Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại Phú Thọ, quê gốc Quảng Nam, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh.

Tuổi thơ ông sống ở Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hoà bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của ông sau này.

Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng Phòng không – Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ. Từ 1970 đến 1978 ông xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích…

Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.

Lưu Quang Vũ kết hôn hai lần, lần thứ nhất với diễn viên điện ảnh Tố Uyên năm 1969. Hai người li hôn năm 1972. Ông kết hôn lần thứ hai với nữ thi sĩ Xuân Quỳnh năm 1973. Con trai của ông và Tố Uyên là Lưu Minh Vũ, hiện đang là một trong những người dẫn chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam. Em gái Lưu Quang Vũ, PGS.TS. Lưu Khánh Thơ hiện đang công tác tại tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Văn học của Viện Văn học. Em trai của ông là GS.TS Lưu Quang Hiệp, từng là hiệu trưởng Trường Đại học Thể dục Thể thao 1.

Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ.

Tác phẩm chính:

Thơ:

  • Hương cây (1968 – in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây – Bếp lửa)
  • Mây trắng của đời tôi (1989)
  • Bầy ong trong đêm sâu (1993)

Kịch

  • Sống mãi tuổi 17
  • Nàng Sita
  • Hẹn ngày trở lại
  • Tin ở hoa hồng
  • Trái tim trong trắng
  • Nếu anh không đốt lửa
  • Hồn Trương Ba da hàng thịt
  • Lời thề thứ 9
  • Khoảnh khắc và vô tận
  • Bệnh sĩ
  • Tôi và chúng ta
  • Người tốt nhà số 5
  • Chiếc ô công lý
  • Ông không phải bố tôi
  • Lời nói dối cuối cùng

Về bài thơ “ Tiếng Việt”: Có thông tin cho rằng đây là một bài thơ hiếm hoi của Lưu Quang Vũ được đăng báo trong những năm người ta từ chối thơ anh. Để đăng được, biên tập phải sửa câu cuối: “Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình” của anh thành “tiếng Việt ân tình”. Bản được công bố được coi là bản chính nên các tuyển thơ Lưu Quang Vũ về sau đều chép: “tiếng Việt ân tình” chứ không phải “tiếng Việt xót xa tình” như ý ban đầu của tác giả.

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder