
Là một trong những gương mặt của lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, có nhiều gắn bó với Hải Phòng còn hiện diện tới ngày hôm nay. Thơ ông luôn bề bộn chất liệu cuộc sống. Đọc những vần thơ này của ông, ta không chỉ thấy một Hải Phòng “trung dũng quyết thắng” mà còn có một Hải Phòng canh cánh thương yêu.
VHP trân trọng giới thiệu chùm thơ “Trọng điểm Thành phố” của nhà thơ Nguyễn Tùng Linh.
Là một trong những gương mặt của lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, có nhiều gắn bó với Hải Phòng còn hiện diện tới ngày hôm nay. Thơ ông luôn bề bộn chất liệu cuộc sống. Đọc những vần thơ này của ông, ta không chỉ thấy một Hải Phòng “trung dũng quyết thắng” mà còn có một Hải Phòng canh cánh thương yêu.
VHP trân trọng giới thiệu chùm thơ “Trọng điểm Thành phố” của nhà thơ Nguyễn Tùng Linh.
Nhà thơ Nguyễn Tùng Linh
CHIA TAY TRÊN CÔNG TRƯỜNG
Gửi N.
Cho anh gửi lại em tất cả
Cửa sổ chưa sơn, tầng nhà xây dở
Những mặt bằng sỏi cát ngổn ngang
Viên gạch màu son, mùi vữa ấm nồng
Cho anh gửi lại em tất cả
Màu nắng trưa vàng, những tối trăng xanh…
Chúng ta chia tay nhau
Ngay bên ngôi nhà bom thù phá vỡ
Ôi ngôi nhà
chưa ấm hơi người đến ở
Những ô cửa
chưa một lần bay ra tiếng cười trẻ thơ
Mà bây giờ thành gạch vụn tan hoang
Anh đọc nỗi căm thù trong đôi mắt của em
Để nuôi lớn trong anh một quyết tâm: giết giặc!
Chính ở nơi đây chúng mình gặp gỡ
Từ cái buổi ban đầu nhiều gian khổ
Trong giá rét mùa đông đào móng dưới mưa dầm
Chia sẻ niềm vui khi công trình lên ngói đỏ
Bắt gặp một nụ cười lấp lánh cửa gương
Chúng ta chia tay
Mà chẳng nói một lời từ biệt
Chỉ nói về
buổi gặp gỡ ngày mai
Khi đất nước không còn bóng giặc
Em sẽ đón anh về
lại đánh vữa
cầm bay
Em xiết chặt bàn tay anh sần chai
Và biết
như xưa
chẳng bao giờ anh lỗi hẹn.
Em ở lại với công trình vượt lên đổ nát
Với tiếng hát trên giàn giáo cao em bắc
Với mẻ bê tông
Đang rắn lại niềm tin
Với những ô cửa màu hồng, ô cửa màu xanh
Và một tình yêu
Như sắc ngói
bao giờ cũng đỏ
Ngọn gió thổi mang theo mùi vữa
Hương năm tháng nồng nàn của nỗi nhớ
Sẽ làm dịu đi mệt nhọc bước hành quân
Giục giã ngọn súng giết thù anh nổ
Cho chín gấp những ước mơ, những dự định cuộc đời
Mà hôm nay chúng ta bắt đầu
Bằng những cuộc chia tay.
1967 – 1969
NHỮNG NGƯỜI PHÁ
THỦY LÔI TRÊN CỬA BIỂN
Kính tặng tự vệ cảng Hải Phòng, đơn vị anh hùng
Đi trong thành phố đêm
Qua những ô cửa sơn xanh đóng khép
Qua nỗi đợi chờ khắc khoải
Qua những kỷ niệm gần như một với tay…
Đi qua những dãy phố đầy thương tích
Bỗng nôn nao nhớ mùi vữa dựng xây
Trái bom nổ trên mái nhà rêu phủ
Khắc vào tim ta những tên tháng, tên ngày
Những tên phố, tên đường nhắc lên đã khiến trào nước mắt:
16 – 4, 31-7; Thượng Lý, Lạch Tray
Mà tiếng khóc em thơ như vết bỏng
Cháy trong lòng ta mối thù không nguôi
Đi trong tiếng còi báo động rú lên
Những quầng mắt đèn vụt tắt
Trong tiếng kẻng dập dồn
Sự phẫn nộ làm tức ngực
Đi trong tiếng loa khoan thai cảnh giác
Báo tầm xa quân thù mang tội ác
Trong ngàn tiếng súng quây lưới săn thù
Trong sắc da cam tên lửa
Hồng lên một tâm những gương mặt ra đi
II
Căn hầm chỉ huy đèn bật sáng
Chiếc bàn con, những tấm hải đồ
Những sắc biển đậm nhạt
Từ hòn cù lao, từ một doi cát
Những bãi bồi chưa ai lập làng vỡ đất
Chỉ cần mẫn còng xây tổ dưới phù sa
Màu xanh quánh đặc – rặng sú già
Ngấn thuỷ triều, từng con nước mở
Một tảng đá ngầm, bãi xác san hô
Những lạch luồng thuỷ lôi nằm chờ nổ
Những lạch luồng đêm nay ta sẽ đi qua…
Tách cà phê tiễn đưa
Bốc khói trong giọng trầm xúc động
Người chỉ huy quê miền Nam
Mái tóc sợi bạc, sợi đen
Bao nhiêu sợi cho niềm vui, nỗi buồn
Vẫn dằng dặc chờ mong:
ngày sum họp
Lại lời căn dặn và cánh tay xiết chặt
Dáng trầm ngâm người thợ khuân vác
Đôi vai trần bóng nước đồng hun
Biết bao tấn hàng
đã trôi
trên vai
trên lưng…
Không nhớ hết. Mà sức anh kém gì cần trục?
Những thuỷ thủ của con tàu dắt
Tiếng hát ồm ồm vừa vỡ giọng
Trẻ như những nụ cười
Chẳng bao giờ rời khỏi đôi môi
Những người lái xe mắt nhớ trăm nơi
Điếu thuốc lá ngún thời gian trên tay
Dáng như thể chiếc xe vừa rồ máy
Cái thô ráp bàn tay anh thợ nguội
Áo quần dầu mỡ khét nồng
Thợ điện dây rợ lằng nhằng
Túi quần đầy những kìm, những búa…
Tất cả về đây trong căn hầm
Trước những tấm hải đồ
Ghi lạch luồng phải mở
Nén xúc động trong từng hơi thở
Trước phút ra đi
Mắt thâm quầng vẫn tỉnh táo say mê…
III
… Chiếc ca-nô rùng mình
Rồi băng băng rẽ sóng
Bâng khuâng vầng trán con người
Phút bước vào những thử thách lớn lao, sáng tạo
Đêm nay ta lại ra cùng biển
Nơi ẩn náu những mưu toan, tội ác kẻ thù
Hòng chặn đường con tàu về bến
Mùa cá mòi nôn nao làn gió mặn
Vắng cánh buồm bầy chim biển cô dơn
Những ngọn sóng bạc đầu vì nỗi nhớ
Ngoảnh lại phía sau
Thành phố tắt đèn trong đêm phòng thủ
Những cần cẩu tháp như bầy hươu cao cổ
Ngóng khơi xa đợi tiếng còi tàu
Mùi sóng nơi đây thường pha lẫn hơi dầu
Cây đèn biển Long Châu – từng chớp sáng trên cao
Bồn chồn và giục giã
Chân trời căng ra trước giờ rạn vỡ…
Chiếc ca-nô bỗng chồm lên tăng tốc độ
Chân vịt quẫy tung lân tinh
Mắt xuyên đêm
những tay lái gan lì, trầm tĩnh
Tất cả lên boong
Những phao bơi trên người buộc sẵn
Có thể lát nữa bom thù hất ta xuống biển
Có thể đêm nay
lần cuối cùng
ngực ta thở gió quê hương
Và không bao giờ
ta còn được hôn em và con
trong căn nhà tối
Ẩm ướt, bâng khuâng mùi đất ngoại ô
Nhưng bây giờ vào trận đánh
Sự quyết tâm đã đổi thành bình thản
Chiếc ca-nô tăng tốc độ cuối cùng
Bật lên dòng điện từ trường
Biển nhiễm từ bùng lên những tia chớp
Những quầng sáng đỏ rực
Kéo theo từng cột nước khổng lồ
Chiếc ca-nô lắc lư
Như chực vỡ tung làn vỏ thép
Vật vã tưởng như sắp lật
bởi những đợt sóng lừng dữ dội
Nhưng tiếng hát con người đã bật lên hoà tiếng máy
Bỏ rơi tiếng thuỷ lôi thù bất lực vọng sau lưng…
Đêm nay như bao đêm trong căn hầm
Người chỉ huy lại xóa đi những chấm đen cho tấm hải đồ sạch lại
Giãn nở những nếp sóng trên vầng trán nhiều nhớ thương
Cặp mắt vàng lên màu lửa thiêu cháy những trại đồn
Những con sóng lại ngây thơ
Nước triều vuốt ve gốc sú
Gió bạt thiệp tung mình trên cửa bể,
Cửa sông chợt rộng ra sau bình yên đáy cát
Những ngôi sao ồn ã, long lanh…
Trên mặt boong những con người vụt lớn qua thử thách
Xúc động trào lên trong khúc hát
Bài hát ngợi ca tình yêu một vùng biển quê hương
Họ nắm tay nhau
hẹn còn đi
cho sạch hết lạch luồng…
IV
Đoàn tàu nối đuôi nhau trôi qua
Vùng cửa biển vừa thoát khỏi cơn đau dữ dội
Thảm lân tinh trải mãi
Ánh trăng tan thành những mắt sóng vàng
Xuyên qua màn sương khói mờ xanh
Những con tàu tìm đến những vụng sâu kín gió
Những vòm động thiên nhiên
Ùa xuống một cơn mưa thạch nhũ
Lại buông neo…
buông neo…
Ngày mai quân thù lại trút xuống đạn bom
Lại thả những chùm dù mang thuỷ lôi lặn chìm đáy bể
Lại cắt đi những lạch luồng ta vừa mới thông
Nhưng dù thế
Những tấn hàng mang tình nghĩa trăm phương
Vẫn không ngớt đến với nỗi nhớ mong, trông đợi
Những người phá thuỷ lôi
Hôn đứa con trước khi trời sáng
Lại những váng dầu con tàu nào vương trên cửa biển
Nắng soi xòe hoa trên mặt phù sa
Nở vào lòng ta
Một niềm tin sắt son
không thể gì phong toả.
Hải Phòng, 1972
TRỌNG ĐIỂM THÀNH PHỐ
Kính tặng nhà máy xi măng
và nhân dân khu Thượng Lý, Hải Phòng
Nơi ấy có con đường nhựa xanh vắt qua dòng sông cuộn chảy
Chiếc cầu cong, một nhịp giữa kéo lên
Xe đến, xe đi bụi bốc mù đường
Những xí nghiệp bên nhau nhấp nhô ống khói
Nhà máy điện: khói than đen lấm bụi
Khói trắng xi măng – dòng sông chảy ngang trời
Con sông hẹp nhiều hôm nước không trôi
Phù sa váng dầu, tàu thuyền ken đỗ
Ngày quân thù ném bom vào thành phố
Qủa bom đầu tiên rơi ở nơi này
Cây bàng cằn, tàn lá bụi phủ đầy
Bom nổ bật tung gốc già gân guốc
Bức tường rách lam nham vết đạn
Gạch đỏ bầm nát dưới bàn chân
B.52 chà sát đã bao lần
Ống khói sạt, khói ngầm trong lòng đất
Chiếc cầu gãy, chiếc cầu treo bắc tạm
Một ngày mấy lần đường tắc lại thông
Xóm thợ nằm kề bên
Mái ngói, mái tranh quây quần đầm ấm
Những ngõ nhỏ vắng bầy em sơ tán
Trên lối mòn vạt cỏ mới mọc lên
Vách hầm rung, thanh kèo cháy trong đêm
Chiếc chum vỡ sau loạt bom toạ độ
Đối diện với gian nan là tấm lòng người thợ
Trụ lại đây bám máy, bám lò
Sau mỗi trận bom cả thành phố nhìn về
Những cặp mắt gặp nhau lưng ống khói
Biết nhà máy vẫn còn, nhịp cầu cần nối lại…
II
Trận mưa xuân, cây rũ bụi trên mình
Lá cơm nguội tơ non phố phường bừng trẻ lại
Ngọn gió thổi qua một vùng đất mới
Hố bom san, đất đá ngổn ngang
Phố thợ trở về trên những gánh gồng
Xe đạp nối đuôi nhau, tiếng cười trong lảnh
Tất cả đẩy chiến tranh vào ký ức
Lại màu trời xanh tinh khiết ban đầu
Thành phố đứng trước ngưỡng cửa mai sau
Những mơ ước, khát khao thành tiếng gọi
Những xóm thợ lầy lội
Mái gianh thấp ra vào phải cúi
Máy ở xa, em gánh nước đổi vai
Những rào giậu xưa ngăn cách đâu rồi
Đây phố mới những con đường rải nhựa
Đất chia lại, nhà mới xây ngói đỏ
Dãy bàng non thẳng tắp hàng hiên…
Cầu treo tạm, nắng mưa trên nhịp gỗ
Ta trả về chiếc cầu cũ bê tông
Nhớ những đêm đổ móng giữa lòng sông
Chiếc đầm rung, niềm vui nén chặt
Hai hàng xe, hai hàng người không ngớt
Ơi những hồng cầu cuộc sống ta yêu
Chớp lửa hàn vụt buông những dải sao
Tiếng búa đập gỡ mảng tường rách nát
Chiếc xà lan vết thương xưa đã khép
Đầy đá lòng khoang về nhà máy đêm nay
Những bể bùn lại quay
Phù sa đặc tươi ròng trên dây xích
Cần cẩu rè rè quay nâng gầu sắt
Những hạt bụi trên đường chưa đỗ xuống lại bay lên
Chiếc máy nghiền quả gang đập suốt đêm
Lửa nhóm lại trong lò, tiếng cờ-lanh-ke chảy tràn trên
máng thép
Dòng sông cạn giờ dòng sông chảy tiếp
Những dải khói bay cuồn cuộn giữa lưng trời…
Ngày ba ca, thời gian không biết mệt
Ban mai lên với màu ngói chín hồng
Đã thành quen cái mùi vữa công trường
Như đã từng quên mùi dầu, mùi mỡ
Cả mùi khói cũng quen trong hơi thở
Tiếng búa quen, giấc ngủ chẳng giật mình
Như ngày nào quen với tiếng đạn bom
Quen gian khổ, cho nụ cười trẻ mãi…
… Tôi đọc từ mắt những người thợ nơi đây
Nhiều điều hơn những lời hứa hẹn
Đánh giặc, dựng xây – đây vẫn là trọng điểm
Với phố thợ, dòng sông, nhà máy, con đường
Với những tấn xi măng rầm rập đến trăm miền.
Hải Phòng, 1974 – 1975.
N.T.L
(Rút ra từ tập Nguyễn Tùng Linh – Thơ, NXB Hội Nhà văn 2017)