
Hải Phòng là vùng đất giàu hoạt chất thi ca, mang phong vị rất riêng, thời nào cũng có những con người tâm huyết góp sức cho thơ không ngừng biến đổi, hòa nhịp sự phát triển của văn học nước nhà… Thơ cách tân cũng vậy, đã có những tác giả được đánh giá là đổi mới có nguồn cội, có kiến năng…
VHP trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Công Nam dưới bút danh Đàn Nguyên Các.
Hải Phòng là vùng đất giàu hoạt chất thi ca, mang phong vị rất riêng, thời nào cũng có những con người tâm huyết góp sức cho thơ không ngừng biến đổi, hòa nhịp sự phát triển của văn học nước nhà… Thơ cách tân cũng vậy, đã có những tác giả được đánh giá là đổi mới có nguồn cội, có kiến năng…
VHP trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Công Nam dưới bút danh Đàn Nguyên Các.
I. Cội nguồn của Thi ca.
Có người hỏi: Thi ca từ đâu ra? hay thơ từ đâu đến?
Câu trả lời giản dị là: Thơ bắt nguồn từ cuộc sống, hay thơ từ cuộc sống đi ra…
Từ suy cảm trên, có thể mở rộng không gian giải luận qua khám phá, tìm hiểu. Ví như, một số nhà nghiên cứu văn học cho rằng, thơ có từ 5 ngàn năm trước, và được dẫn dụ bởi một bài thơ của nhà thơ – nữ tu sĩ Enheduanna thuộc nền văn hóa MesoPotamia, do các nhà khảo cổ phát hiện cách nay chừng 150 năm. Ngoài ra, hai tác phẩm thi ca truyền khẩu của người Hi Lạp như Iliade và Odyssec được cho là của Homere cũng xuất hiện từ thế kỷ XIII trước Công nguyên.
Ở phương Đông, khi nghiên cứu về văn hóa Trung Hoa, được biết thơ và chữ viết của người Trung Hoa ra đời từ rất sớm. Vào đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu (T.K thứ XI đến T.K thứ VI, TCN) đã thịnh hành một thể dạng thơ – nhạc, gọi là Kinh Thi, chủ yếu để cho các tầng lớp quý tộc và quan lại xướng họa, nhưng dưới thời Tần Thủy Hoàng hầu như đã bị thiêu hủy, hiện chỉ còn lại khoảng hơn 300 bài thơ thoát họa. Chữ viết thì xuất hiện từ 1.200 năm TCN.
Tại Việt Nam, Thơ bắt đầu phát triển từ TK thứ X:
– Nam quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt – 1077
– Thiên Đô Chiếu của Lý Thái Tổ – 1010
– Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – 1428
Vậy Thơ là gì?
Từ lâu vấn đề được đặt ra, và đã có biết bao nhiêu cách giải thích, bao nhiêu là định nghĩa; Ông Sóng Hồng định nghĩa; nhà lí luận phê bình Hoàng Ngọc Hiến định nghĩa; ông Trần Đình Sử dẫn định, rồi thì nhà thơ Wordsworth và nhà thơ Emily Dickinson cũng đưa các định nghĩa khác nhau, không định nghĩa nào giống định nghĩa nào. Hơn thế, Lawence Ferlinghetti còn đưa ra những hơn 50 định nghĩa về thơ cho thế kỷ XXI. Ông nói: “có bao nhiêu bài thơ thì có bấy nhiêu định nghĩa…”, nghĩa là không thể tìm ra cho thơ một khuôn định chung.
Và, tại sao lại là thi ca? Chắc nhiều người cho rằng: cái sơ thời của thơ là để hát nên được gọi là thi ca. Cũng có thể tự luận rằng, chính từ trong sinh hoạt, trong lao động đã tạo nên những làn điệu, nhất là khi tiếng nói phát triển và hình thành nên những câu lời có nhạc vần, dễ thuộc dễ truyền khẩu, nghe quen, chuốt giũa dần mà thành ra Thơ.
Khởi đầu, có lẽ dân tộc nào cũng vậy, thơ phát sinh từ hai nguồn chính yếu; một là từ dân ca, hai là từ các bài ca thuộc lễ nghi tôn giáo. Đến thời kỳ loài người phát minh ra chữ viết, thơ mới tồn tại ở hai dạng thức: bằng truyền miệng và bằng văn bản (chữ viết).
II. Sự phát triển của thi ca
Phát nguyên như đã nói, thơ ca mới đầu là để ca hát. Ca hát trong đời sống thường nhật. Ca hát trong sinh hoạt lễ hội…
Thời cổ đại Hy Lạp các bài thơ, truyện thơ khi trình bày có nhạc nền được gọi là Ode. Từ thế kỷ 17 ở Tây Âu đã có kịch thơ. Các buổi sinh hoạt thơ thường được diễn ra ở nơi công cộng, ở quảng trường. Các vở kịch thơ được trình diễn trong các nhà hát sang trọng. Còn Kinh Thi là một dạng thức Thơ – Nhạc mang tính phóng túng, không minh luật của người Trung Hoa xưa, cũng là để cầm ca, xướng họa (trên đã dẫn).
Lần vết thời gian, có thể dễ dàng nhận ra thơ phát triển và biến thức không ngừng. Một số nơi hình thành nên các trường phái, các trào lưu khác nhau, có niêm luật và vô niêm, nhất là thế kỷ 19 & 20.
Ở nước ta, hơn 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Trung Hoa thâm nhập vào đời sống dân Việt ngày một sâu rộng. Chữ Hán được truyền bá, được tiếp nạp thông qua các tầng lớp quan lại, thị thần. Một số nước ở châu Á cũng có ảnh hưởng nhất định nền văn hóa Hán, nhưng An Nam có lẽ là nơi chịu ảnh hưởng lâu bền nhất, trong đó thơ phú đóng một vai trò chính yếu; vì nó là cơ sở để chọn ra tầng lớp quan lại phục vụ chế độ phong kiến thời bấy giờ. Chính sự ảnh hưởng quá lâu bền như vậy, nên chúng ta lầm tưởng thơ người là thơ ta – Thơ truyền thống, thuần Việt. Nhưng, chỉ gần một trăm năm văn hóa Pháp thâm nhập vào Việt Nam thì văn học nghệ thuật cũng như các lĩnh vực khoa học khác phát triển và có tầm ảnh hưởng chưa từng có đến đời sống và văn hóa của cả dân tộc, nó dần đẩy ảnh hưởng văn hóa Hán xuống hàng thứ cấp.
III. Việt Nam với cách mạng Thi ca
Đổi mới nghĩa là Cách mạng.
Lịch sử loài người đã có nhiều cuộc cách mạng, trong đó có 3 cuộc C.M ý nghĩa nhất là: Cuộc cách mạng Văn Hóa Phục Hưng (thế kỷ XIV – XVII) , cuộc Chiến tranh của Napoleon (sau 1789 – 1815), và cuộc C.M Khoa học và Công nghệ hiện đại (từ năm 50 thế kỷ XX tới nay). Nhưng, vĩ đại hơn cả vẫn là cuộc C.M Văn hóa phục hưng. Phong trào V.H Phục Hưng là một phong trào sâu rộng, có tiếp thu và thừa kế một số yếu tố trong nền văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại, góp phần vào việc phục hồi và hưng thịnh nền văn hóa Hy- La. Giá trị của cuộc C.M Văn hoá Phục Hưng chính là Chủ nghĩa nhân văn, lấy nhân sinh cõi đời làm tiền đề hướng mọi hoạt động của giới văn nghệ sĩ vào công cuộc phục hưng, mở đường cho sự phát triển cao hơn của văn hóa Châu Âu và văn hóa nhân loại. Phong trào này khởi phát từ Ý, qua Pháp, Đức, Áo, Tây Ban Nha rồi đến Na Uy, Anh, Nga…
Về lĩnh vực văn học, phong trào này hướng đến 3 thể loại chính: Thơ, Tiểu thuyết và Kịch.
Chỉ qua một thời gian ngắn, phong trào này đã sản sinh những tác phẩm có giá trị. Riêng thơ có Đan Tê với “Thần khúc”, Patraca với tập thơ “Tình yêu tặng nàng LoNa”. Thể loại kịch thơ trong thời kỳ này rất phổ biến tại Pháp, Đức, Na Uy…
Việt Nam, trước chủ yếu tồn tại dạng thức thơ Đường Tống, T.K X có thơ của Lý Thường Kiệt, Lý Thái Tổ, Nguyễn Trãi… còn thơ thuần Việt từ trước những năm 1930 chỉ tồn tại những dạng tuồng chèo (một dạng kịch thơ), ca dao hoặc những thiên sử thi truyền khẩu. Ở cấp độ cao hơn, thể thơ Lục Bát được định hình tương đối sớm. Có thể coi Truyện Kiều là đỉnh cao cho thể loại lục bát. Còn ngày nay, cái gọi là thơ truyền thống, nhưng đa phần thơ ca hàn lâm đều là của người Trung Hoa; có chăng, phần nào được pha tạp, Việt hóa (song thất lục bát). Nhưng chưa đầy một thế kỷ Pháp “khai hóa văn minh” thì văn hóa Pháp đã nhanh chóng lan tỏa ra khắp ngõ ngách đời sống dân Việt. Bắt đầu từ việc truyền bá chữ viết mới, đó là cách dùng mẫu tự La tinh để ký âm tiếng Việt (Quốc ngữ). Đây chính là tiền đề mới cho cuộc cách mạng văn chương Việt, điển hình là thời kỳ 1930 – 1945. Giai đoạn này, phong trào Cách tân văn hóa lan rộng, số Tây học được đề cao và trọng dụng, số Nho học dần hạn chế, yếu vị. Tiên phong trong cuộc cách mạng văn học này là những nhà văn, nhà thơ có kiến năng tây học như Phạm Quỳnh, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Nhất Linh**… Tiếp nữa là các nhà thơ nổi danh như Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Chế Lan Viên… Kỹ năng chọn lọc ngôn từ mới mẻ, tác phẩm ngày một chất lượng. Chính ở giai đoạn này các thi nhân Việt đã sáng tạo nên bao thi phẩm nức tiếng như Gửi hương cho gió của Xuân Diệu, Áo trắng của Huy Cận, Điêu Tàn của Chế Lan Viên, Gái quê và Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử, Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Thể loại kịch thơ cũng đồng thời xuất hiện và phát triển. Điển hình như các vở:
– Huyền Trân công chúa (1935) của Nguyễn Nhược Pháp
– Hậu Nam Quan (1937), Lên đường (1942) của Hoàng Cầm.
– Trầm Hương Đình của Thế Lữ (1942)
– Vân Muội (1942) của Vũ Hoàng Chương
Và từ Cách Mạng (tháng 8/1945) đến thời chống Mỹ, như luồng gió mới làm xung động hồn thi nhân, mong hiến thân vì sự nghiệp chung của dân tộc. Những Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng, Vũ Cao; đến Giang Nam, Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Bùi Minh Quốc, Thi Hoàng, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy… đều tùy cảm mà phóng bút theo cách thể hiện hoàn toàn mới mẻ, đa thể dạng. Có thể nói, đây là thời kỳ thơ Việt phát tác và thăng hoa nhất. Đã thành tựu một số tác phẩm để đời như: Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Núi đôi của Vũ Cao, Tây tiến và Đôi mắt người Sơn Tây của Quang Dũng, Quê hương của Giang Nam; hoặc các tập thơ Cát Trắng của Nguyễn Duy, Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật, Sóng thủy tinh của Nguyễn Trọng Tạo…
Sang thời kỳ đổi mới từ 1975 đến nay, nhất là từ thập niên 1980, phong trào đổi mới thơ chuyển sang một cấp độ khác như, sự mới bằng mọi cách, sự chủ trương cải thức, công thức hóa thơ, v.v… đã tạo ra một không khí khá ồn ào trên văn đàn. Nhưng, rốt lại chỉ có một số gương mặt là định danh được tên tuổi. Ở lớp cao niên vẫn là Thi Hoàng, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Hoàng Hưng, Nguyễn Duy. Ở tầm trung tuổi có Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều. Ở lứa trẻ hơn có Văn Cầm Hải, Lam Hạnh, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Mỹ Ý…
IV. Đổi mới là nhu cầu tự nhiên
Hãy lấy ví dụ về mặt xã hội và về Khoa học kỹ thuật để soi chiếu.
- Xã hội loài người liên tục biến động.
Từ xã hội nguyên thủy qua thời chiếm hữu nô lệ, sang xã hội phong kiến, rồi đến chủ nghĩa Tư bản. Và, hơn thế kỷ nay hình thành Chủ nghĩa xã hội (đang đà thoái trào).
- Khoa học kỹ thuật phát triển vũ bão.
Từ công cụ sản xuất thô sơ lên phức tạp, đến cách mạng Công nghiệp, và nay là cuộc C.M Khoa học và Công nghệ hiện đại.
Ngẫm ra, thời nào, lĩnh vực nào cũng có nhu cầu đổi mới. Có những thứ đổi thay diễn ra từng giờ từng phút, đơn cử như công nghệ điện tử, máy tính, thông tin…
Vậy thì, cách tân Thơ đương nhiên là một tất yếu của đời sống văn học.
V. Hải Phòng và Thơ cách tân
Với xu trào cách tân thơ 1930 – 1945, Hải Phòng là một điểm đáng lưu ý trong phong trào thơ mới của cả nước. Từ thời tiền chiến đến giai đoạn kháng chiến chống Pháp, rất nhiều cây bút đã thể nghiệm cách viết mới như: Thế Lữ, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng đến Lê Đại Thanh, Nguyễn Viết Lãm…
Từ thời chống Mỹ cho đến nay, Hải Phòng đều có những nhà thơ chủ ý thoát dần khuôn mẫu, thể hiện theo hướng tự do hóa ngôn từ, cốt ở sự hoạt ý, đạt tình như Đào Cảng, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Hoàng Hưng, Dư Thị Hoàn…
Như Thanh Tùng, thành tựu thi ca của ông thì không phải là lớn, nhưng ông có một số bài thơ, một số câu thơ để đời, đọc xong lưu ám ta mãi “Trong câu thơ của em/ Anh không có mặt/ Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết/ Anh đâu buồn mà chỉ tiếc/ Em không đi hết những ngày đắm say …” (Thời hoa đỏ), hay “Thành phố dịu dàng trong sương ẩm ướt/ Những vết tường rêu phong xanh ngái ngủ/ Tiếng còi tàu mềm đi như nỗi nhớ…” (Vào thu). Nhưng có lẽ, Thi Hoàng và Hoàng Hưng là hai nhà thơ có khuynh hướng cách tân tiêu biểu và có ảnh hưởng nhất đến nền thi ca Hải Phòng và cả trên bình diện toàn quốc. Sau nữa là với Mai Văn Phấn.
1. Thi Hoàng:
Đối với Thi Hoàng, về trường ca một số người cho là sở trường, nhưng chính những bản đoản thi của ông mới gây ấn tượng mạnh. Trong đó, tính đáo để là một đặc trưng rất Thi Hoàng “Hãy cứu! Hỡi chính quyền, tôn giáo/ Để xác chúng tôi được chết trước tâm hồn/ Chứ nếu để tâm hồn chúng tôi chết trước/ Vậy là lấy dây diều treo cổ những hoàng hôn” ( S.O.S) hay “Thơ như ánh trăng mê man thấm thía/ Bán cho tiên tiên chẳng có mà/ Bán cho ma nhưng ma chẳng có tiền/ Thì cho đấy dẫu là hồn lìa vía/ Thơ ấy mà, tỉnh quá cũng như điên” (Gọi trăng). Về trường ca, hai trường ca chính “Ba phần tư trái đất” và “ Gọi nhau qua vách núi” thì trường ca Gọi nhau qua vách núi như là bước khởi phát mới. Từ nội suy đến ngoại tả, hay từ ngoại cảm đến nội suy, Thi Hoàng đều vẽ nên bức lập thể của cái xã hội, nơi mà ông đang trải, đang nghiệm, trong đó hồn vía của cuộc sống muôn vẻ cứ ngang dọc xuôi ngược hiện ra, lúc như đối chọi đốp chát, lúc như gió sóng đa chiều dìm dập nhau, bìu víu nhau mà tất tật toát lộ ra thứ hiện thực ảo mờ ma quái, thứ hiện thực như khó truy hình đuổi dạng. Nhưng, sống trong cái thời buổi đầy rẫy sự ngụy danh, ngụy trí giả này đọc kỹ, ngẫm kỹ ta vẫn nhận được mặt, đặt được tên, đó là thứ Hiện thực tập mờ (Tựa một bài thơ của ông).
Còn giọng điệu thơ Thi Hoàng, kể từ Đom đóm và sao (1997) cho đến Cộng sinh với những khoảng trống, vẫn giữ cái cách dụng ngôn gai góc mà thâm hóm như đùa như trêu, như vờ bình thản mà âu lo đến xác hồn. Biết rằng, đau buồn là thuộc tính của thi ca, nhưng qua thơ ông ta còn phát hiện, Thi Hoàng dường như nhiễm thêm chứng bệnh tưởng “Lâu lâu có người được phong thánh/ Lâu lâu có kẻ bị tử hình/ Nhân loại nói chung thích những gì đặc biệt/ Tội lỗi xin hãy chừa tôi ra, bởi vì tôi sợ chết/ Còn làm thánh nhân ư? Tôi sẽ tự nghi ngờ mình/…./ Tôi là kẻ thất thường hoang tưởng/ Từng tạo ra những hốc tối om cho sự thông minh ngồi im” (Tự thú trong Đom đóm và sao). Hoặc giả như: “Lúc giải phóng Điện Biên mình còn bé tí hin/ Nay lên đây đã thấy nặng vai tuổi tác/ Mấy mươi năm cũng có lúc rảnh rang, có lúc có tiền/ Nhưng đâu biết lòng mình còn hiểm trở hơn núi non ghềnh thác/ Giờ mới Lai Châu, mới Điện Biên, mới đồi A1…/ Sự vô tâm như cánh bướm che mất tầm nhìn” . Và khi xã hội từ trạng thái thâm u hình thành nên những mưu toan dẫn đến sự xuống cấp của đạo đức, cuối cùng dồn tụ thành cơn lũ… cuốn thơ ông vào ức cảm “Dưới chân cầu nước chen nhau trôi lôi tuột mất những điều mình không kịp nghĩ/ Ngao ngán cửa sông nước ngáp/ Mãi mới xô được đi một kiêu ngạo trương phềnh…” (Bóng ai gió tạt ). Và vẫn khuôn giọng ấy, trong “Cộng sinh với những khoảng trống”, Thi Hoàng lại ôm nỗi sợ thường trực “Chúng ta lúc nhúc dưới một nhãn cầu khổng lồ là bầu trời/ Thủ những bí mật trốn vào đáy mắt tự nhiên để phần xác thực thà còn phần hồn thì triền miên dối trá/……/ Mắt xanh mắt đen mắt tròn mắt dẹt/ Mở ra mở ra mở ra kẻo hỏng hết chính quyền/ Biết cúi đầu trước khoảng trống hiền lành/ Đó là những chính quyền vô định”.
Nhưng đi hết đường thơ Thi Hoàng, thì thơ tình dường như không mấy khi có mặt, phải chăng đời ông tình vắng nên thơ ông mới giàu chất thế sự !?
2. Hoàng Hưng.
Sau thập niên 90, Hoàng Hưng mới thực sự hướng định vào thơ cách tân. “Đất nắng” là tập thơ đầu tay của ông. Đến tập “Ngựa biển” (1988) thì cách thể hiện đã giàu tính biểu trưng hơn. Phải đến tập “Người đi tìm mặt” (1994) thì cái chất nội tâm, trầm suy có phần dự cảm mới xuất thần vụt hiện “Người về từ cõi ấy/ Bước vào nhà người quen tái mặt/ Người về từ cõi ấy/ Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy/ Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui/…./ Mười năm sau còn quen ngồi một mình trong tối”. Cũng mãi đến mười năm sau (1995 – 2005), tập “Hành trình”, dạng thức mới – thơ Thiền hiện đại ra mắt độc giả. Không hiểu tâm hồn ông đã đạt độ an thái? hay sự hoài nghi luôn ẩn ngụ tâm ông mà trong “Hành trình” có những câu ai đã đọc cũng phải trăn trở, lưu tâm “Ta hành khất gì đang hành khất một niềm tin bên trên lý lẽ” (Mưa Băng Cốc); “Ta không lên được đỉnh bài thơ/ Dù bậc xi măng đã xây đến đỉnh/ Hay chính vì bậc xi măng đã xây” (Lên núi). Tập “Hành trình” có người cho là hành trình đi tìm mặt người, mặt thơ. Ngẫm kỹ, “đi tìm mặt thơ” có thể đúng nguyện ý của ông, còn “đi tìm mặt người” thì xin để ngẫm thử, coi đã. Vì sống giữa cái thời có quá nhiều biến động này, biết đâu dật ý Hoàng Hưng là đi tìm mặt Thánh, hay là mặt Đức Tin còn ẩn dạng trong cõi đời mà ông đã trải nhưng chưa nghiệm.
Cũng như Thi Hoàng, Hoàng Hưng không chỉ tạo ra những nét chấm phá trong một tác phẩm thơ nhất định, mà thơ ông còn chuyên tâm vào vấn đề mà cả nhân loại quan tâm: số phận con người.
Dẫu đã ngoài 70, ông vẫn kiên nại lần bước trên nan lộ cách tân thơ Việt.
3. Mai Văn Phấn.
Nói đến Thơ cách tân ở Hải Phòng, không thể không kể tên một trường hợp mà những năm gần đây được nhiều người quan tâm – Hiện tượng thơ Mai Văn Phấn.
Năm 1992 anh cho ra tập “Giọt nắng”. Nhưng đến Trường ca “Người cùng thời” (1999), thơ anh mới có sự chuyển hướng rõ nét. Tiếp là tập “Vách nước” (2003), “Hôm sau” (2009), “Và đột nhiên gió thổi” (2009), “Bầu trời không mái che” (2010) mới dần định dạng phong cách thơ Mai Văn Phấn. Thơ anh hàm tố hiện đại, ngôn ngữ giàu ảo chất. Anh đã để lại một chuỗi tác phẩm đáng ghi nhận. Một số độc giả cho rằng thơ Mai Văn Phấn là loại thơ đánh đố, xiếc chữ, thơ tắc tị… Đúng là thơ anh không dễ đọc, muốn đọc và cảm luận được thơ Mai Văn Phấn phải có phổ kiến rộng, nếu không thì chẳng khác gì đi vào chốn thâm u mù mịt… Trong thập niên 90, anh đã từng có những đắn đo, những thúc bách trăn trở về việc cách tân thơ như, đã từng ứng tác các kiểu loại Tân hình thức, Mảnh vỡ, Huyền ảo… Nhưng rồi anh đã bình tĩnh thanh lọc, vượt thoát để định vị cho mình cái thể cách hàm ngôn biến cảm , từ đó hướng định con chữ vào lối hiển quan Mai Văn Phấn.
Qua một số tác phẩm của anh ta có thể nhận biết những biến thức liên tục của thơ Mai Văn Phấn. Đó là những bản hòa sắc mang phong dáng của các họa phẩm giữa lãng mạn và siêu thực, giữa dị mộng (huyền ảo) và tâm linh…“Từ miệng bóng râm/ vươn lên/ hương quyến rũ/ Đu cành cao/ chạm ngực em trái chín/ Thân bỏng rát/ Anh sấm rền gót chân” (Hát từ đất), và “Căng ngang trời cánh chim/ cho ngữ nghĩa trị vì mặt đất/ nơi mặt gió gặp đỉnh đồi cúi gục/ hang tối phà bí ẩn với sương mai/ ao chuôm tìm hướng lên trời/ dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở” (Đất mở); lúc thì như khẽ khàng trò chuyện với chính mình, với người thân giữa đời thường, lúc thì lễ độ trải tình “Đám mây trên đầu đang ngậm sữa, buông vào không gian từng chùm rễ gió, để bàn chân ta bám xuống bùn nâu, để giấc mơ lang thang cũng bén xuống bùn nâu và những yếu hèn tự ti đến mùa trút lá, tiếng lá rơi gõ nhịp những thăng trầm” (Trường ca Người cùng thời) ; “Anh tỉnh dậy chùm hoa lộc vừng còn ngái ngủ/ Biển ngoài kia vẫn ngủ/ Bờ cát duỗi chân mây/ Em thở đều tiếng sóng/ Buông lưới mềm chìm đáy ban mai” (Nhịp VIII- Hình đám cỏ) trong “Bầu trời không mái che”; hay trong “Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”: “Pha xong ấm trà/ quay ra/ ông khách không còn ở đó/ Gọi điện thoại/ Người nhà bảo ông mất đã bảy năm/ Nhầm lẫn(!)/ Nhà mình/ mọi sự đảo lộn/ Không nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ…/ Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng giây cót?/ Bộ ấm chén giả cổ ai cho?/ Ghé sang hàng xóm/ thử hỏi xem mấy loại thực phẩm/ loại tăng giá/ loại còn giữ giá/ Trong nhà/ Trà vẫn nóng/ Đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi/ Luồng tử khí cao chừng một mét sáu mươi dựng đứng trước mặt/ chốc lại cúi gập”.
Cả ba trường hợp đã dẫn trên thì:
Riêng với Mai Văn Phấn có lúc, có chặng còn bị thứ thơ công thức, kỹ thuật ám tưởng, rồi anh mới dần như là người thoát tục.
Với Thi Hoàng và Hoàng Hưng thì sự ăn nhập hình thái mới lại như là một sự biến hoạt thích ứng tự nhiên.
Rõ là việc cách tân thơ ở mỗi người một khác, nhưng tựu lại, ở họ đổi mới có nguồn cội, có kiến năng, không nghèo nghĩa loạn ngữ như một số nhân vật hiện đang cố tạo ra sự ồn ào, đổi mới bằng mọi giá, kể cả đổi mới đến độ không có gì. Tiếc thay một số nhà lý luận phê bình cũng nhiệt tình hòa vào cái ồn ào tân thời này, vô tình cổ súy cho xu trào di nạp thứ thơ công thức, thơ kỹ thuật từ đâu đó ùa lan sang không gian thơ Việt.
Hải Phòng là vùng đất giàu hoạt chất thi ca, mang phong vị rất riêng, thời nào cũng có những con người tâm huyết góp sức cho thơ không ngừng biến đổi, hòa nhịp sự phát triển của văn học nước nhà.
Hy vọng văn học Hải Phòng với những tiềm năng như Nguyễn Thị Thùy Linh, Thy Nga, Trần Ngọc Lưu Ly, Phạm Vân Anh, Tuấn Anh cùng một số cây bút khác không ngừng tiếp hướng cho thơ thể tình, phát tác.
___________
* A lếch Xăng Đờ Rốt và các cộng sự là những người có công trong việc La tinh hóa tiếng Việt (1615) thay cho chữ Hán – Nôm .
** Nhất Linh: Sinh và trú quán tại Cẩm Giàng, Hải Dương; gốc Điện Bàn, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học tại Pháp, có thời gian xuống Hải Phòng dạy học. Ông vừa là Chính khách nổi tiếng, vừa là nhà văn, vừa là người đam mê hội họa. Năm 1963 vì phản đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm; Nhất Linh bị giam lỏng và bị xét tội, nhưng ông đã quyên sinh bằng thuốc độc.
Nguồn khảo cứu:
– Thụy Khuê – Nguồn gốc thi ca, 4phuong.net
– Phong trào Văn hóa phục hưng và những thành tựu tiêu biểu, tuvanhotro.vn
– Nhà thơ nữ tu sĩ, trên 360thuvienvatly.com
– Khế Iêm – tân hình thức và hiệu ứng cánh bướm, thotanhinhthuc.org
Hải Phòng, tháng 6/2015
Đ.N.C