Tự truyện THỜI THƠ DẠI – Truyện ngắn của Lê Bá Hạnh (Phần cuối)

(Minh họa của Lê Bá Hạnh)
Với tôi cái học được trong đời có giá trị nhất là nói dối. Trước đó nhiều lần tôi ốm thực sự nói chẳng ai tin. Nhưng lần này tôi giả vờ bác sĩ lại cho là thực.

Tôi cố giấu nụ cười bước ra khỏi bệnh viện, lòng háo hức chưa biết sẽ dùng bảy ngày nhàn rỗi kia vào việc gì…

Với tôi cái học được trong đời có giá trị nhất là nói dối. Trước đó nhiều lần tôi ốm thực sự nói chẳng ai tin. Nhưng lần này tôi giả vờ bác sĩ lại cho là thực.

Tôi cố giấu nụ cười bước ra khỏi bệnh viện, lòng háo hức chưa biết sẽ dùng bảy ngày nhàn rỗi kia vào việc gì.

(Minh họa của Lê Bá Hạnh)

VỀ QUÊ

Học xong, thoát khỏi mức lương khởi điểm, tôi làm đơn xin chuyển về quê . Cán bộ phòng Tổ Chức giải thích: “Anh quên là trong hồ sơ xin học đã có bản cam đoan “Xin phục vụ nhà nước năm năm và sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi bất cứ nơi nào…” đó sao?” Đúng là mọi mẫu đơn đều có đoạn chữ như thế sau cùng. Ngày đó đọc thoáng qua thấy bình thường, không ngờ đó là sợi dây buộc chặt vận mệnh của tôi với vùng đất xa lạ này…

Mới năm năm mà tôi thấy dài đằng đẳng, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện về quê. Nước máy khan hiếm, chia nhau từng gầu nhỏ, tôi nhớ ngay đến nước Suối Rồng từ trong núi đá chảy ra mát lạnh ngọt lịm, chảy tràn trề suốt ngày đêm. Đi đường làng lồi lõm bước chân trâu trơn đổ mỡ, tôi nhớ ngay đến đường đất cát phẳng lì, hết cơn mưa là khô ráo…

Có lẽ tôi luôn nghĩ đến về quê nên lúc nào cái mặt cũng ngây ngô  như mất hồn, cũng là hậu quả nhiều đêm mất ngủ, đoàn tàu rầm rầm lăn bánh rít còi vọng vào vách núi dội ra Bến Cảng, gần như đêm nào cũng lặp lại…

Nhà ăn tập thể chỉ rau muống, thịt mỡ, đậu phụ… hôm nay lại có loại cá lạ nấu riêu, cái dạ dày đã quên hẳn vị tanh nên nhiều người ăn xong bụng quặn đau và đua nhau vào nhà vệ sinh “rèn rẹt”, rồi bơ phờ kéo lê từng bước về giường nằm, tôi cũng không thoát khỏi căn bệnh ấy nhưng nhẹ hơn nhiều. Phòng Y Tế cho nhân viên mang thuốc và nước đến từng giường bệnh. Nhiều anh tham ăn bụng không chịu được, người rũ xuống như lá dưa. Tôi được dịp ôm bụng nhăn nhó lăn đi lăn lại trên giường, làm mấy cô y tá hốt hoảng tưởng biến chứng nào mới xuất hiện. Hỏi cái gì tôi cũng gật gật lắc lắc loạn xạ, sẵn cái dáng người gầy như xe điếu, luôn nghĩ đến mọi chuyện, đôi mắt đờ đẫn như cá ươn…

Cũng như bệnh nhân nặng, tôi được khám bệnh phát thuốc được nghỉ  làm việc ba ngày. Ba ngày này đối với tôi là một kỉ nguyên mới, tôi phát hiện ra bao nhiêu điều mới lạ xung quanh: Mấy gia đình công nhân ở xen kẽ với khu tập thể và cuộc sống những con người như trong cuốn tiểu thuyết nước ngoài mới mượn được của một nữ sinh…

Bệnh viêm họng di chứng của bụi than là bệnh của mọi người chỉ có khác là nặng nhẹ khác nhau, tôi đã phải cắt Amiđan mất máu khá nhiều, đến giờ lại viêm họng hạt mãn tính lúc nào cũng có thể húng hắng ho và khạc nhổ…

Thấy thân hình còm nhom, khuôn mặt tôi phờ phạc, mọi người khuyên đi khám bệnh không khéo lại suy nhược thần kinh. Mà đúng là suy nhược thần kinh như bác sĩ đã kê đơn: Mấy viên thuốc giảm đau, mấy viên B1 và C cùng lời dặn: Trước khi đi ngủ gội đầu bằng nước ấm. Nhưng đó chỉ là lời khuyên, ở nhà tập thể làm gì có nước nóng mà gội.

Một tuần uống hết thuốc tôi lại đến bệnh viện xếp giấy giới thiệu ngồi chờ gọi đến tên mình vào khám. Nơi này nồng nặc mùi thuốc, nhưng tôi thấy dễ chịu hơn nhiều khi bước chân vào nhà máy. Dù ngồi chờ khám bệnh, xunh quanh đầy những người vật vờ mặt ủng da vàng như cùng một thứ bệnh…

Một người chắc là công nhân Mỏ ở xa,  hớt hải chạy vào đặt giấy khám bệnh, bàn tay chai sần cầm cả tập giấy thận trọng như nhẩm đếm số giấy đã đặt trước rồi ngơ ngác tìm chỗ ngồi chờ. Theo bản năng, tôi nép vào một bên ghế băng để thừa ra một chỗ gật đầu mời người mới đến cùng ngồi. Tôi bắt chuyện thì ra cùng hoàn cảnh, ông bạn vong niên hơn tôi gần chục tuổi mà trông như ông cụ, mấy năm nay đánh song đánh ngang mới được quyển sổ Y Bạ dầy cộm với những bệnh hiện nay y học bất lực, nhờ thế mới xin về quê được dễ dàng, hôm nay là lần khám cuối… Tôi như gặp được bạn cố tri, học được cách trả lời bác sĩ như thế nào sẽ được thuốc tốt nhất và được nghỉ làm việc dài ngày nhất…

– Chồng giấy khám cao thế này còn lâu mới đến lần mình!

Anh bạn thầm thì rồi kéo tôi ra sân hóng gió, tỏ ra đầy kinh nghiệm nơi khám bệnh này. Anh lật qua mấy trang sổ Y Bạ, đảo mắt nhìn  xung quanh không thấy ai để ý, anh nói nhỏ vào tai tôi: “Phải đi uống ngay mấy cốc cà phê, để huyết áp tăng lên mới đúng bệnh và hợp lí”. Tôi nhanh chóng thực hiện ngay điều chỉ dẫn, chỉ mấy bước chân ra cổng bệnh viện là được như ý muốn.

Cô y tá giúp việc bác sĩ lần lượt gọi từng người vào khám đông như chợ cũng dần dần vợi người. Vì chờ đợi và mấy cốc cà phê đã làm tôi nôn nao choáng váng, thấy cái gì trước mặt cũng khó chịu chỉ muốn hất tung tất cả lên mới hả bực…Chờ mãi tôi cũng được gọi vào, mắt ngơ ngơ, ngác ngác nhìn lên tận trần nhà mặt ngẩn ngơ, bác sĩ phải nói lần thứ hai chỉ cái ghế tôi mới lập cập ngồi xuống, hai bàn tay run lên như sốt rét. Bác sĩ đo huyết áp, hai mắt tròn ra kinh ngạc, hai bàn tay cũng run rẩy, làm cái gì, nói cái gì tôi cũng lúng búng trong mồm rồi gật đầu. Một lúc lâu, bác sĩ viết liến láu lia lịa vào sổ y bạ và đơn thuốc. Tôi cầm đơn thuốc nhìn trừng trừng mà chẳng đọc được chữ gì.

Ông bạn vong niên nhìn qua đã thấy điều tốt đẹp: Được nghỉ làm việc bảy ngày; Thuốc bổ thông thường B1; sinh tố C lại có cả Philatốp uống, loại chỉ dành cho người mới ốm dậy. Điều quý nhất với tôi lúc này là được nghỉ làm việc bảy ngày,

Với tôi cái học được trong đời có giá trị nhất là nói dối. Trước đó nhiều lần tôi ốm thực sự nói chẳng ai tin. Nhưng lần này tôi giả vờ bác sĩ lại cho là thực.

Tôi cố giấu nụ cười bước ra khỏi bệnh viện, lòng háo hức chưa biết sẽ dùng bảy ngày nhàn rỗi kia vào việc gì.

Về đến khu tập thể vắng lặng, tôi lăn lên giường ngủ li bì, không có đám thợ nghỉ trưa, có lẽ không biết giờ ăn cơm. Ăn xong tôi lại lên giường ngủ nhưng chỉ được một giờ mọi người dậy đi làm tôi cũng không sao nhấm mắt được. Nằm lăn từ đầu giường này đến đầu giường kia mãi cũng chán, tôi chợt nhớ đến sách và vơ vội lấy quyển sách đọc: Thời thơ ấu; Kiếm sống; đến Những trường đại học của tôi… cứ như thế, tôi nghiến ngấu đến Truyện ngắn Sekhop; đến Bông Hồng Vàng của Pautopki…Nhưng tôi tâm đắc nhất là Những mẩu chuyện nước Ý và hành loạt truyện ngắn của Maxim Gocki, SêKhốp… Tôi cũng ao ước được tự do đi khắp đất nước làm thuê và viết truyện…

Bảy ngày nghỉ ốm qua đi nhanh chóng, tôi chẳng ốm thêm cũng chẳng khỏe ra, nhưng tinh thần phấn chấn như có người hứa cho một kho vàng.

Tôi đã học được cách nói dối đánh lừa được bác sĩ đưa vào danh sách bệnh nhân có bệnh mãn tính.

Mùa hè nóng bức, khoa thần kinh bệnh viện càng nhiều người đến khám, ba giờ chiều tập giấy giới thiệu xếp “nốt” vẫn còn dày. Tôi thư thái đặt giấy theo thứ tự rồi ra ghế đá ngoài sân rút quyển sách đọc dở tiếp tục nghiền ngẫm.Thoát khỏi không khí bệnh tật nóng nực, dưới lùm cây xanh lá người tôi khoan khoái như hết bệnh, nghe lảnh lót trên cành cao tiếng chim hót véo von trong yên ắng…

Bỗng có tiếng rít ầm ầm như xe ben đổ đá mà kéo dài mãi…một lúc sau lại có tiếng như thế nữa và lác đác tiếng súng máy, súng trường, súng cao xạ. Trên nền trời xanh ngắt nổi bật chiếc máy bay hình vỉ ruồi kéo theo vệt khói dài trắng toát…cùng với cụm khói đạn cao xạ từ tàu hải quân bắn lên nổ nụp bụp trên không.

Có ai đó hét lên: “Máy bay Mỹ bắn phá đấy!”

Mọi người hốt hoảng chạy tán loạn để lại sân bệnh viện trống rỗng, tôi thấy dửng dưng thanh thản như chuyện ấy của thiên hạ. Tôi bước vào phòng khám, mọi người đã cầm hết giấy giới thiệu tản mát đi đâu hết, tôi cầm giấy của mình vào phòng bác sĩ đang lập cập thu dọn giấy tờ, ngẩng lên gặp bệnh nhân quen thuộc, vội viết lia lịa vào sổ y bạ và đơn thuốc rồi phẩy tay xua tôi ra ngoài để giữ lại bình tĩnh.

Đến tối đài truyền thanh thị xã đưa tin đã bắn hạ một máy bay phản lực và bắt sống phi công Anpharet đó là máy bay của hạm đội 7 Hoa kỳ vào bắn phá tàu hải quân trả đũa việc đụng độ với tàu Madoc ngoài vịnh Bắc Bộ. Mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc kéo dài bảy năm. Đó là ngày 5 tháng 8 năm 1965.

Cuộc khám bệnh lần ấy, đối với tôi đó là một bước ngoặt, được mấy ngày nằm dài ở nhà đọc sách không phải làm những công việc nhàm chán, trong không khí ngột ngạt. Không phải làm vật sai khiến hết nhóm thợ này đến nhóm thợ khác, nuốt hận mà phải vui vẻ để được lòng khi nhận xét bình thưởng cuối năm, liền với tiền thưởng nhiều hay ít…

Tôi không ngờ đó là điểm ngoặt trong đời. Mọi việc đã hành xử như thời chiến. Thế là chiến tranh đã hiện diện, thợ không phải đến xưởng làm việc mà vào rừng sâu đào hầm trú ẩn và chuyển những cổ máy nặng nề vào đó để tiếp tục làm việc, công việc hối hả bề bộn, cán bộ không còn ngồi ở văn phòng, tôi đến mấy lần mà chẳng gặp ai để nộp đơn xin chuyển về quê như dự định.

Tôi thăm dò ở quê, xí nghiệp nào cung lo sơ tán bảo vệ máy móc, chẳng nơi nào nghĩ đến nhận thêm người.

Tôi cũng như mọi người chán nản đánh cờ, đánh phỏm để giết thời gian Một ngày qua đi nhanh chóng. Tiếc thời gian , tôi lôi sách ra học, một tuần vài tối cũng đủ thời gian tôi ham mê bổ xung kiến thức, lại được người thầy tận tâm hết lòng, chính là người thầy đã dạy tôi ở trường mỏ, nay đã chuyển về nhà máy nhận chúc trưởng phòng Kỹ thuât và dạy học buổi tối.

Những bảng thập phân, hình học, tang cốt, sin, cô sin mở ra điều kì lạ mà xưa nay tôi chỉ biết loáng thoáng trong sách tự học.

Sau buổi học về khu tập thể đều qua cửa hàng Bác hóa Tổng hợp nơi đông vui bậc nhất có nhiều thứ quần áo đẹp, vải tốt. Những cô nhân viên không son phấn đã đẹp như nàng tiên. Tôi ngạc nhiên thấy cô bán vải, mỗi người mua lại phải làm một phép toán nhân lượng vải với đơn giá vải rồi thử lại cẩn thận, người tiếp theo cũng gần giống như thế

Tôi chăm chú nhìn cách bán vải, về nhà lập ra bảng có hàng ngang chia cột: 1 mét; 1,1 mét; 1,2 mét; 1,3 mét cho tới 5, mét…Hàng thẳng đứng ghi giá tiền: 10 đồng; 10,1 đồng; 10,2 đồng, 10, 3; … v.v. (cho tới thứ vải giá cao nhất)

Ai mua vải giá bao nhiêu, đặt thước kẻ, gióng lên số lượng vải định mua, sẽ là số tiền phải trả… (cả phòng kế toán mới có một máy Nisa quay tay, chỉ còn làm được tính cộng trừ)

Sáng kiến này giúp ích rất hiệu quả, được khen thưởng và báo cáo thành tích. Tôi may mắn lọt vào mắt xanh cô nhân viên bán hàng, không lâu được tổ chức đám cưới “Báo Hỉ” trong phạm vi hẹp, buổi tối tổ chức phải ra hầm trú vài lần vì báo động.

Dự định về quê, chuẩn bị công phu mấy năm liền bỗng nhiên tan ra mây khói! È cổ mang trách nhiệm gánh nặng vợ con.

7 –  CHẠY TRỐN ĐẠN BOM

Cả thành phố trước kia đông đúc chật chội thế,  nay đã sơ tán, bỏ chạy hết…Cán bộ tìm hang sâu ẩn nấp, dân cũng tản đi tứ phương. Nhà máy đã chuyển hết vào rừng, một vài thiết bị đã hoạt động cầm chừng vì thiếu các đồ gá, các dụng cụ chuyên dùng.

Có lẽ chẳng ai muốn quay lại thành phố không còn viên gạch nguyên vẹn này mà mấy thằng ngang bướng chúng tôi được đặc trách quay về nhà máy đào bới trong đống gạch vụn tìm những thứ cần thiết ấy.

Ngày đầu chúng tôi chứng kiến những trận bom bay tung hết mái tôn nhà xưởng, những xác người cháy đen thui lột hết quần áo đang mặc, nghĩ cũng run sợ, sau quen dần khi nắm được quy luật của mỗi trận bom đổ xuống. Chúng tôi về hầm trú trước khi máy bay tới. Khi tan hết bụi khói, chúng tôi lại được vài giờ tìm kiếm rau xanh, nấu cơm ăn và tắm giặt… Tôi lại thấy thoải mái hơn những ngày chui rúc trong rừng ẩm thấp và phải đi làm ở nhà máy ồn ào hồi trước.

Xưa nay tôi chưa biết làm một việc nhỏ trong nhà: Ngày đi học, các chị tranh nhau quét sân, nấu cơm rửa bát, mấy chị gái để em trai vào bếp có mà mặt mo; khi lớn đi làm đã báo cơm ăn tập thể cái bát không phải rửa; có gia đình, vợ lại cầu kì chỉ vừa ý khi chính tay mình nấu nướng… Có lẽ bàn tay “chiêu” lóng ngóng của tôi đã làm ngứa mắt mọi người… Bây giờ vợ con phải theo cơ quan đi sơ tán. Tôi phải sống tự lập,  sau vài lần chậm chân chịu đói bụng, tự rút kinh nghiệm, tôi trở thành anh nấu ăn cho mình khá hoàn hảo: Chọn một hõm đá chất củi đốt cháy ầm ầm, gác chiếc cặp lồng nhôm ngang qua chỉ một lúc gạo sôi ùng ục, đặt ngăn thức ăn chỉ có thìa mắm tôm, quả cà chua và một tí mỡ lợn, tất cả chỉ mươi phút là chín, ăn chỉ  năm phút là xong. Chỉ ăn xong mới biết ngày đó được no, vì  nhiều lần trông thấy bát cơm nhưng bom đạn đã đè lấp. Giữa cái no và đói, cái sống chết đã bắt tôi tháo vát như vậy, bây giờ bắt thao tác lại làm được chắc cũng khó…

Sau những bữa cơm chiều, không gian yên tĩnh đến lạ lùng, chắc tụi giặc lái ngoài hạm đội Bẩy giờ này cũng ngồi vào bàn tiệc hay khiêu vũ hoặc ngâm mình trong bồn tắm. Chúng tôi kéo nhau ra ngoài hang trú ẩn đi dạo trên con đường ngổn ngang gạch ngói, sắt thép và than gio… vượt bức tường rào đổ nát qua (dẫy nhà Tây) khu biêt thự xây từ thời vua Nguyễn bán cả khu mỏ này cho người Pháp. Ông Chủ Nhất, Chủ Nhì đã xây lên, ngày nay là tư gia của lãnh đạo hàng Tỉnh, mái ngói xô, trần sụt, cửa bật tung khỏi bản lề; của quý hiếm chắc không ai dư thừa để lại, chỉ trỏng trơ mấy bộ sa lông rách vải, cái tủ quần áo trống không, nhưng tủ kính đựng sách còn nguyên vẹn. Ngăn Lý luận Chính trị còn chặt cứng, ngăn Văn học trong nước và nước ngoài – đã ngấm nước mưa bìa quyển này dính chặt vào quyển khác, tôi mừng sáng mắt lên khi tìm được mấy cuốn tiểu thuyết chưa đọc vẫn nằm trong đó; mấy ông bạn chẳng ham hố lắm cũng ôm về một tập để đầu giường thay gối. Hồi mới vào học chúng tôi đã tổ chức ăn cắp sách ở thư viện, vì quyển sách hay đến mượn đều được trả lời: hết; mà mắt vẫn còn nhìn thấy trên giá sách. Chúng tôi tự bào chữa: “Ăn cắp sách không xấu – có ngu mới không biết giữ sách – Sách hay mà mang trả lại ngu hơn – Ngôi nhà nằm trên đường chúng tôi đi và về nên tiện đường lại ghé qua, có anh tìm được cuốn Từ Điển tiếng Nga in trên giấy mỏng y như giấy cuộn thuốc lá, một thứ kham hiếm bậc nhất thời đó.

Ngôi biệt thự nằm ngay trên sườn núi, phòng có tủ sách nhìn thẳng ra Vịnh Hạ Long thơ mộng, dù mọi thứ đã  tan hoang, nhưng sao quyến rũ đến lạ lùng, có lẽ cái bức tường dày chắn nắng, cái hành lang rộng và nền lát gạch hoa đẹp cầu kì bóng nhoáng; Chúng tôi chỉ dọn sạch vài mét vuông để ngồi nghỉ hóng gió đã thấy đã thấy dễ chịu.

Cứ như thế này mà không có bom đạn thì sướng biết bao. Tưởng như ngôi biệt thự này là quyền sở hữu của riêng mình.

Chúng tôi ai cũng có mấy miếng ván kê trong hang để ngủ, người nọ đạp lên đầu người kia vì chật chội, bây giờ mỗi ngày lại ôm về một đống sách, sau một trận mưa chúng tôi lại bê sách ra ngoài hang phơi nắng, vuốt lại những tờ quăn góc, xoa sạch những cát bụi, dán lại gáy từng quyển đã bị ngấm nước bung hết tờ bìa. Đôi lúc vất vả lắm mới tìm được đúng cái bìa của nó, dựng hàng loạt quyển sách ngắm nghía say mê và chợt thấy mình may mắn trở thành giàu sang khi sở hữu một khối lượng sách mà xưa nay chưa bao giờ dám nghĩ đến…

Hàng ngày quay lại nhà máy đào móc những dụng cụ cần thiết, tôi luôn để mắt tìm những tấm ván đóng hòm chứa sách, gom những dây điện, dây kẽm để chằng buộc; anh bạn bên cạnh lại tìm dây thép nhỏ trong lõi dây điện thoại uốn làm lưỡi câu tôm, ngắm nhìn thời tiết rồi nói nhỏ vào tai tôi: “Biển ngày này nhiều tôm lắm, câu tôm rất dễ, chiều về tôi dạy!”

Buổi chiều ấy, anh bạn kéo tôi xuống biển đi nhẹ nhàng dò từng bước thật yên tĩnh, nước trong xanh mắt nhìn suốt tận đáy, nhìn rõ chân mình và những viên gạch đỏ đã tròn nhẵn như viên đá cuội, nhìn kĩ sẽ thấy con tôm có mắt dài sáng long lanh, đưa nhẹ nhàng lựa lưỡi câu vào con mắt ấy nhấc lên cho vào túi vải đã chuẩn bị. Lúc đầu bỡ ngỡ bước bì bõm tôm chạy hết, sau phải học từng bước đi, cách lựa đưa lưỡi câu rồi từ từ nhấc lên, chỉ mất mấy con tôm đầu tiên may mắn chạy thoát, sau cứ đều đặn như đếm. Chẳng mấy chốc chúng tôi mỗi người được một túi đầy. Chỗ tôm này ra chợ một ngày lương không mua được. Tôi kinh ngạc, thấy anh bạn vuốt thẳng con tôm cho ráo nước, tay cầm đầu tôm đưa cả phần đuôi còn ngoe ngẩy cho vào mồm nhai ngấu nghiến rồi chậm rãi dần như kéo dài cái giây phút kì lạ ấy đến khi trên tay chỉ còn lại ít râu tôm, cái gai nhọn và đôi mắt. Tôi tròn mắt kinh ngạc nhìn theo… Thấy không ngộ độc chết người, lại thấy hao háo như khát nước, tôi cũng bắt chước, lần đầu tiên trong đời được nếm vị ngậy béo mát lạnh của con tôm còn sống đang dẫy đành đạch. Nó càng ngon vì trong người chúng tôi đã từ lâu thiếu chất hải sản tươi sống này.

Dù nó ở ngay trước mặt hàng ngày vẫn không nhận thấy.

Bữa chiều ấy chúng tôi như có đại tiệc: Tôm kho một nồi đầy để ăn dần, một ít băm nhỏ nấu canh với mấy quả mướp hương, một bạn đã túm giật cả giàn mang về, một anh lớn tuổi gọt quả mướp tiếc rẻ:

– Quả mướp đang lớn này để dành tuần sau hãy ăn thì tốt!

– Liệu có sống được qua ngày mai không mà để dành! Ông nên nhớ, tôi vơ quáng quàng chạy kịp về đây là may mắn đấy, chậm chân một tí xác đã tung lên giàn mướp rồi!

Tình cảnh ấy đã có nhiều, biết nguy hiểm nhưng vẫn phải làm, gần như đánh cược, năm ăn năm thua với bom đạn. Đi làm về ai cũng tự giác tìm thêm rau xanh nấu nồi canh để mọi người ăn chung, ai kiếm được rau gì ăn rau đấy. Từng người đều phải tự lo cho mình món ăn khô, người cá ướp, cá khô, người mắm tép mắm tôm… tùy theo từng nhà, gạo cũng vậy, mỗi người một túi, ai cũng vui vẻ chấp nhận như đã quá quen ăn độn mì nhiều hơn gạo, nếu bắt ăn gạo trắng không chắc sẽ chê là nhạt nhẽo không  ngon. Cái thói quen của con người cũng tạo thành cố tật đến kì dị.

Sau bữa ăn rất ngon có những con tôm chính mình kiếm được, nhìn đống sách đồ sộ xếp ngay ngắn trên giường, tôi thấy mình đã giàu sang hơn hết, đống sách này trước kia tôi chưa bao giờ nghĩ đến, chỉ dám đi qua cửa hàng sách ngắm mê mải, hai ba tháng cộng lại mới đủ tiền mua một cuốn mỏng, trước đó đọc lướt được vài cuốn cho đỡ thèm, vài tháng nữa mới mua được.

Bây giờ đã sở hữu một đống sách đồ sộ, tôi có thể ra bờ biển hét to lên: “Ta đã giàu lắm rồi!”.

Tiếng ai đó: “Sống mãi thế này có khi dễ chịu, bây giờ nghĩ đến bước vào xưởng làm việc lại chán”…

Chiến tranh phá hoại kết thúc, chiến tranh biên giới đi qua, đất nước bị cấm vận, xóa bỏ chế độ tem phiếu bao cấp, cơ quan Thành Ủy cũng có phòng kinh tế để lo lương cho lãnh đạo. Công nhân về chế độ “một cục” đủ tiền mua được cái xe xích lô chuyên chở thuê hàng hóa…

Cũng may tôi đánh bạc với bom đạn – (năm ăn, năm thua) có được đống sách chiến lợi phẩm trong chiến tranh phá hoại, ăn cắp  của Thư viện và mua gom chục năm trời được một giá sách đầy đặn, sau này nhờ một chuyến đi Hà Nội gợi ý để tôi mở cửa hàng: “Cho thuê truyện – Bán sách báo” cứu đói cho cả nhà.

Không phải theo bạn dựng xích lô chở thuê hàng hóa. Học mánh khóe lừa lọc gian dối và đao búa (Nghề này không thế không được) Theo nghề đó có lẽ tôi đã rục xương lâu rồi…

L.B.H

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder