
Thân nồi hơi hình ống, (vì chưa lắp các chi tiết hai đầu) Tôi tưởng anh Tiến tốt bụng nhận phần khó về mình nằm vào phía trong, buổi sáng còn mát mẻ; gần đến trưa thời tiết thêm nóng bức, tôi càng phải chui vào sâu và anh ta càng được lùi ra ngoài tha hồ hưởng gió mát. Thế mới biết cái khôn vặt của người thợ giàu kinh nghiệm là thế…
Thân nồi hơi hình ống, (vì chưa lắp các chi tiết hai đầu) Tôi tưởng anh Tiến tốt bụng nhận phần khó về mình nằm vào phía trong, buổi sáng còn mát mẻ; gần đến trưa thời tiết thêm nóng bức, tôi càng phải chui vào sâu và anh ta càng được lùi ra ngoài tha hồ hưởng gió mát. Thế mới biết cái khôn vặt của người thợ giàu kinh nghiệm là thế.
(Minh họa của Lê Bá Hạnh)
KÍ ỨC TUỔI THƠ
Tôi sinh đã là người dân mất nước: Một trăm năm thực dân phương Tây, phong kiến cầm quyền. Và một nghìn năm bị nước lớn phương Bắc đô hộ.
Từ bé tí, tôi phải tự tìm đồ chơi làm thú vui cho mình. (Bố mẹ và chị người nào việc ấy làm thuê kiếm ăn hàng ngày) Tôi lê la khắp sân rồi ra ngõ dưới hai vòm cây hoa giấy quấn quýt nhau lá lúc nào cũng lộng gió dâm mát. ; bắt hai con kiến vặt râu thả lên lá khoai chúng cắn nhau đến quyết liệt… Nhìn sát đàn kiến kéo lê xác con sâu đưa về tổ; lúc đột ngột nối đuôi nhau tha trứng lên ngọn cây, con nọ theo sát con kia, gặp con đi ngược chiều, dí râu vào nhau đến kì lạ, rồi lấy que củi vẽ loằng ngằng nát mặt đất chẳng ra cái gì, chỉ bị quát mắng.
Mỏi mắt ngóng mẹ về chợ, vứt cho chiếc bánh hai chị em chia nhau rồi xuống ao vớt vèo băm rau, nấu cám lợn… Chị tôi hăm hở bẻ đôi chiếc bánh, bao giờ cũng lấy phần nhiều, tôi khóc thét lên đòi phần to, nhanh tay chị đã cắn một miếng lớn. Tôi ấm ức nhận phần thiệt. Lần sau chia bánh tôi bắt đặt dao, nhận phần mới được cắt, nhưng lưỡi dao khi ấn xuống chị cố lái sang phần của tôi mất đi khá nhiều… Sau này tôi mới nhận ra, dù quy định đầy đủ bao nhiêu nhưng người thực hiện tham lam thì chẳng thể có công bằng…
Mẹ tôi thấy điều ấy nhưng tảng lờ như không biết. Hơi sức đâu mẹ phân giải chuyện ấy. Và có ai công bằng với mẹ, con người là nô nệ thời phong kiến thực dân… Sau này những lúc vui vẻ, tôi hỏi lại chuyện ấy, mẹ tôi chẳng nhớ khi nào nhưng vẫn cười vô tư: “Chị mày hơn một tí có sao!”…
Chỉ một tí ấy, với tôi là nỗi đau bị ức hiếp gian dối, bị ăn chặn. Việc không công bằng. Những ý nghĩ ấy cứ đè nặng mãi trong tôi. Cái ấn tượng ấy nó cứ theo tôi dai dẳng làm thui chột đi bao nhiêu sáng tạo, làm nguội lạnh nhiều hoài bão và ước mơ…
Sưu cao thuế nặng, lệ làng trăm thứ. Mất mùa đói ăn nhiều nhà đã đứt bữa. Chánh tổng vẫn hối thúc bố mẹ tôi phải làm mâm xôi con gà ra đình mua chức “Nhiêu” để tôi đến tuổi trưởng thành có chỗ ngồi ở đình, không phải vác cờ, khiêng trống…
Nhiều người ở phủ Nam Định, Thái Bình đói ăn đã khăn gói đi khắp nơi xin làm thuê, buổi tối về quán chợ nằm la liệt co ro chỉ manh chiếu rách, sáng ra đã chết cứng nằm co quắp góc chợ…
Bố mẹ tôi ra ruộng cày thành luống, bổ hố ươm ngô, chị em tôi cũng được theo ra đồng ngồi chơi dưới tán mấy lá cọ xua chim khỏi đến ăn mất hạt ngô giống, cả ruộng đã cắm cờ trắng dày đặc dựng cả hình nộm đội nón khoác áo tơi tay cầm cờ gió phất phơ mà chim chẳng sợ vẫn lăn xuống tìm thức ăn. Có lẽ chúng cũng ở thời kỳ đói khát như con người nên phải liều mạng kiếm sống. Sau này tôi mới biết đó là năm Ất Dậu (1945) Hai triệu người chết đói…
Cách mạng Tháng Tám như cơn bão đổ về sôi sục Và tuyên ngôn Độc Lập xóa hết mọi tàn dư của chế độ phong kiến nhiều đời. Tôi chẳng biết chức “Nhiêu” là cái gì. Nhắc lại chuyện này mẹ tôi thẩn thờ nuối tiếc mâm xôi, con gà giò béo ngậy mang ra đình cho cụ lí, cụ chánh uống rượu…trong khi đó bữa cơm gạo hẩm các con không đủ no.
Kháng chiến bùng nổ, cả làng theo nhau gồng gánh tản cư, ngủ bờ đê bụi chuối, đói khát nheo nhóc ghẻ lở đầy người, đi qua nhiều làng xóm bị xua đuổi như đuổi tà. Túi gạo mang theo nấu cháo ăn dần đã hết… Không còn đường nào khác, mọi người bảo nhau phải quay về quê lợp lại mái nhà của chính mình để sinh sống. Đành lòng nơm nớp lo sợ roi vọt súng đạn, không ít người đã bỏ mạng vì kiệt sức… Tám chín năm mà dài dằng dặc…
Bố tôi mua về quyển vở và cây bút chì, cầm tay tôi tô từng chữ cũng bị đòn roi khổ sở vì buông tay lại đưa bút về tay trái… Chịu roi vọt chán tôi cũng được gửi đến lớp học Tam tự kinh, nhưng đến nay chẳng còn nhớ gì ngoài phạt quỳ sưng đầu gối và tiếng thước gỗ đập xuống bàn thót tim…
Vào đội Thiếu niên nhi đồng hát múa cũng vui nhưng tôi vẫn như lạc lõng xa lạ, mãi sau nhờ người thầy giáo trẻ hướng dẫn để hòa nhập và truyền dạy cách học, hệ thống kiến thức làm tôi tin cậy vào những bài học…
Năm cải cách ruộng đất,
Trên bố tôi có người chị (tôi gọi là cô) lấy chồng làm nghề biển: quai xăm, đóng đáy, câu cá mực ngoài khơi, phải mời nhiều bạn chài cùng làm; tôm cá đánh được chia đều, đương nhiên có phần người có thuyền có lưới như lệ làng thỏa thuận. Đội cải cách Ruộng Đất cho đó là gia đình bóc lột quy vào hàng địa chủ bị giám sát hàng ngày, bắt phải khai nhận là địa chủ bóc lột, nên không cho mọi người quan hệ ra vào. Nhà có tiền nhưng không có gạo nấu cơm…
Hàng ngày đi học, tôi phải giấu một túi gạo nhỏ để người cô nấu cháo cầm hơi. Làm được việc này tôi được huấn luyện như diễn viên đóng kịch lành nghề, thuộc những câu trả lời dối trá cho đến khi hết ngọng nghịu… Riêng tôi day dứt không hiểu tại sao như thế nhưng vẫn phải làm. Có lẽ đó là điều dối trá đầu tiên tôi phải học…
Một ngày đi học, giờ ra chơi buồn bã, từng nhóm nhỏ cũng thì thầm. Tôi ngồi vào bàn học ngạc nhiên thấy cặp sách bị lục tung toang, đếm lại sách bút không thấy thiếu gì cho là chuyện lơ đãng. Cuối giờ học thầy giáo dặn riêng: “Em về qua Ủy Ban xã, đội Cải Cách có chuyện muốn gặp em.” Tôi bàng hoàng, không biết tai họa gì đang đổ xuống đầu. Tôi hỏi lại thầy cũng không biết gì hơn, cuối giờ học bụng đã trống rỗng sôi lên ùng ục, về muộn chắc thằng em chọn mất phần củ sắn, còn lại củ khoai lang rím cay sè. Mấy hôm trước, một bạn học tự nhiên nghỉ hẳn vì bố mẹ bị quy là địa chủ – thuộc thành phần bóc lột – Vì Đội Cải Cách đã chỉ định tìm cho ra thành phần bóc lột để trừng trị…
Hết giờ học, tôi bước vào trụ sở, chị cán bộ cốt cán đã đón sẵn đưa về nhà ở ngay phía sau mấy bước. Ngôi nhà lụp sụp ngổn ngang nhiều thứ tôi thấy xa lạ.
Một cán bộ đang lúi húi làm việc, thấy chị cốt cán về, anh đứng lên vươn vai rồi chằm chặp nhìn tôi như ước tính trọng lượng sắp phải mua hoặc sắp bán vật gì. Người tôi run lên vì lo sợ nhiều hơn là bụng đói…
Trên chiếc giường ọp ẹp, chiếu rách nham nhở, ngổn ngang những tờ giấy khen in trên bột gạo bằng mực tím, nhiều tờ đã nhạt nhòa mực bẩn lem nhem, đã vài tờ viết thử tên người bằng nét chữ nguệch ngoạc…
Mấy câu hỏi xã giao học hành, xem kĩ sách học bài viết của tôi rồi chậm rãi hỏi:
– Chữ thế này em viết được chứ!
Nhìn tập giấy khen, mấy tờ đầu đã viết chữ méo mó, chữ thường cũng như chữ hoa viết run rẩy bằng nét bút gai gợn. Tôi viết chữ hoa tên người nét đậm nét nhạt trên Bảng Danh Dự của lớp, viết chữ thường trên báo tường đã quá nhiều nên nhẹ nhàng gật đầu.
Chuyện chỉ có thế mà tôi sợ phát run mấy giờ liền. Từ đấy các buổi chiều không được lang thang đi chơi mà phải đến đó còng lưng ngồi viết. Cả buổi đầu gần như ngồi mài ngọn bút “rông” cho trơn lúc kéo xuống đủ đậm, nét hất lên tròn đều mềm mại… Hơn một tuần, một danh sách tên người dài dằng viết lên tập giấy khen đã hết, tôi lại nhận việc kẻ lại tờ giấy khen như thế in thêm ra hàng loạt. Tôi lấy nút chai bằng ni e cắt hình ông sao năm cánh ấn vào quả dành dành hoặc nghệ vàng; lấy thuốc đỏ y tế (méc quya) in nền. Thế là tờ giấy khen đã có lá cờ đỏ sao vàng với màu tím của mực. Tiếp theo nữa, viết nội dung thông tư, chỉ thị… in hàng loạt gửi xuống các xóm thôn… công việc tưởng như không bao giờ hết…
Tôi chợt nhận ra mình dại dột tự lấy dây trói mình không được tự do chạy nhảy đánh khăng, đá cầu cùng bạn đồng lứa…
Cuối đợt cũng được tuyên dương thành tích, trao tặng một giấy khen do chính tay tôi kẻ mẫu và viết nội dung. Ủy Ban chỉ việc đóng con dấu và một chữ kí như gà bới…
Cải cách ruộng đất xong, ruộng vườn ông bà để lại cho bố mẹ tôi bị thu lấy làm khu quân sự, chia bù cho mấy sào ruộng xa tít tắp ngoài đê chua mặn nước sâu như vực, phải cấy loại lúa hạt gạo đỏ như máu, rắn như đá phải ninh sôi mấy sấp hạt gạo mới chín nhai vào mồm như gặm sỏi.
Lên rừng trồng thêm sắn khoai ăn độn vẫn chưa đủ no, mùa hè ra biển mò cua bắt cáy. Mùa thu lên rừng chăng lưới đánh chim ngói: Loài chim cũng dại dột, cả đàn bay thấy bóng con chim đồng loại xà xuống cứu giúp để cả đàn rơi vào bẫy lưới chăng sẵn úp xuống bị bắt cho vào lồng, có con bị cột sào đập phải chết ngay tại chỗ hai mắt trong veo mở trừng trừng chẳng thấy ân hận luyến tiếc.
Hết tuổi mang khăn quàng đỏ, đoàn Thanh Niên vận động đi đào mương công trình đại thủy nông kéo dài ba tỉnh mang tên Bắc Hưng Hải – với khẩu hiệu mĩ miều “Tranh thủ cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc” Tuổi mới lớn chúng tôi nghe thật hấp dẫn…và cũng không còn đường nào khác, tôi theo chúng bạn lên đường, dù các chị gái đều can ngăn; vì ở nhà việc lớn nhỏ các chị làm hết, tôi chưa bao giờ biết đặt đòn gánh lên vai, thân hình gầy còm nhom khẳng khiu như xe điếu.
Đúng là sức lực con người có hạn, nhưng họ được động viên hò hét cổ vũ, có người gánh nổi mấy trăm cân gấp hai ba lần trọng lượng chính mình; để được phong danh hiệu kiện tướng cấp một, cấp hai. Có lẽ một bạn gái được phân công lôi kéo tôi phấn đấu; rủ tôi xung phong cùng khiêng những cục đất lớn, tôi gầy gò nhưng đang ở tuổi “bẻ gẫy sừng trâu”. Ngựa non háu đá nên gật đầu ưng thuận. Đó là sự dại dột đến ngu dốt. Một cái quang dây đặc biệt, tôi đi sau, máu sĩ diện kéo cái quang về gần mình, loạng choạng đi được vài chuyến, cái vai bên phải của tôi đã đau đỏ rực lên không thể đặt cái gì lên được; tôi phải đổi sang vai thuận bên trái, hai đứa đi được mấy bước là nghiêng lệch loạng choạng, chân bước hụt xuống vũng thấp và sức nặng của cục đất đè xuống làm gẫy chiếc đòn tre già đã bóng nhẫy. Và hai chúng tôi cùng đổ gục, cũng may đốt xương sống không bật ra cục nào, bánh chè đầu gối không bị tung rơi đi mất..
Đứng trên mặt đê sông Hồng nhìn xuống lòng móng cống Xuân Quang, con người phía dưới nhỏ xíu trông đuối mắt, như đàn kiến hối hả xây tổ. Cục đất được gánh từ dưới hố móng đổ lên mặt đê phải đến chục người “đổi độ”… Cứ như thế mọi người đua nhau hối hả làm việc. Từng “tấc” đất được chia theo đầu người từng đơn vị nên sự giám sát chặt chẽ và khuyến khích mở ra những chân trời rực rỡ… thỉnh thoảng lại rộ lên câu hò hát để quên đi cái bụng trống rỗng…
Bữa ăn hết rau muống luộc lại rau muống xào. Thi thoảng tranh nhau từng miếng lòng lợn bầy nhầy xào bí xanh bí đỏ, cơm ngày khê ngày sống… Làm không theo kịp mọi người nên ăn cũng chậm chạp, vét váy cơm sạn cơm sống. Nắng cháy da bong rộp bóc ra từng mảng, gió thất thường; tôi cảm sốt rét run đắp hai ba chăn vẫn không đủ – bà chủ nhà thương tình lấy lá tre, lá thơm xông mới đỡ, nằm im như đang ngủ
Ngoài công trường, sau khi sắp xếp công việc cho mọi người dốc sức làm việc, trưởng đoàn cùng đại đội, trung đội về trụ sở họp, mở túi xách lấy ra bánh kẹo hoa quả cùng nhau ăn hì hục, nhận xét thằng này thằng kia chưa chịu khó, chưa đầu tàu gương mẫu cần phải chấn chỉnh tư tưởng nhiều hơn nữa.
Tôi rợn người vì những câu đánh giá nhận xét, trái ngược với lúc đông người phát biểu ca ngợi công khai khen nức nở tinh thần làm việc của mọi người.
Dần dần tôi nhận ra sự dối trá của anh bí thư Đoàn không còn là thần thánh như xưa nay tôi thầm bái phục; những câu nói ngọt nhạt chỉ muốn lừa lọc mọi người nhẹ dạ cả tin dốc kiệt sức lực làm những việc như khổ sai – báo cáo lên cấp trên để lấy thành tích để chúng hưởng thụ riêng đầy đủ…
Cô gái hôm xưa cùng tôi khiêng đất suốt ngày xoắn sít nay lạnh nhạt thờ ơ như không hề biết, quay ra làm quen với nhóm sinh viên. Đại Học Xây Dựng hay Thủy lợi gì đấy bằng những câu “hò lơ… hò lờ” nhạt nhẽo. Họ học trong sách từ thời Trung cổ xây dựng kim tự tháp Ai Cập hay mới nẩy ra “tối kiến” một đống người đứng ở trên cao gò lưng kéo một quang đất từ dưới lòng sông lên bờ theo một đường cáp ngày nào cũng phải căng lại khỏi võng tịt xuống đất..
Tính ra năng suất lao động thua xa người nông dân quen gánh phân rải ruộng,
Nhưng đoàn sinh viên vẫn được tuyên dương, được ca ngợi tung hê lên tận trời xanh. Chúng tôi đứng từ xa chiêm ngưỡng khuôn mặt tươi cười nở như hoa đầy hãnh diện…
Tôi quên hết những lúc lao động kiệt sức đói khát cực nhọc. Lần đầu tiên tôi bước ra khỏi làng quê, biết con sông Hồng đục ngầu chảy xiết, biết con tàu chạy bằng hơi nước phì phì như thở gấp mỗi khi lăn bánh kéo cả đoàn dài rồng rắn uốn lượn theo đường ray…
Tôi như lớn lên, hít sâu sảng khoái. Phấn chấn như chờ đợi một món quà được phân phát. Dù bị bớt xén.
LẦN ĐẦU RỜI QUÊ
Cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt đã đến giai đoạn cuối.
Quê tôi nằm sâu trong vùng tạm chiếm. Năm 1953, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội đột nhập đánh sân bay và đốt kho xăng lửa cháy ngút trời. Lính Pháp đuổi hết người làng lên mấy xã huyện gần đó, tạo thành vành đai trắng bảo vệ khu quân sự vừa bị đánh phá, cũng chẳng giữ được sự thống trị lâu dài. Điên Biên Phủ thất thủ, hiệp định Gionevơ chấm dứt chiến tranh. Ngày 13 tháng 5 năm 1955 tên thực dân Pháp cuối cùng khoác balô lên tàu há mồm xuống phía Nam vĩ tuyến 17 tại Bến Nghiêng…
Đó cũng là ngày dân làng tôi dựng cổng chào vui mừng đón bộ đội về tiếp quản. Lần đầu tiên chúng tôi được hướng dẫn hát tập thể, cầm tay con gái nhảy múa vòng tròn chỗ đông người.
Chuẩn bị đèn kéo quân, đèn ông sao và nhiều điệu múa hát cho ngày Tết trung thu thật vui. Bỗng cơn bão lớn như sóng thần làm vỡ đê tàu thuyền bị sóng đưa hết vào đồng lúa, hơn bốn chục người thiệt mạng, nhiều nạn nhân nhiều ngày sau mới tìm thấy xác. Không còn ngôi nhà nào nguyên vẹn. Không khí tang tóc bao trùm cả làng xóm. Trên thành phố cũng vỡ đê Tràng Cát, bộ đội cứu dân hy sinh được phong tặng danh hiệu anh hùng, nay có phố mang tên anh: Nguyễn Minh Đức!
Cả cánh đồng lúa tốt đang thì con gái, đã ngập nước mặn thối rũa, đồng trắng nước trong, mọi người lo sợ ngao ngán không biết sống bằng gì.
Rồi Đội cải cách ruộng đất về làng.
Làng xóm im ắng không tiếng chó kêu mèo lạc, không thấy ai nói cười, trong gia đình cũng thầm thì nhỏ nhẹ, bữa ăn cũng không dám động mạnh đũa bát.
Mẹ tôi phải dậy từ gà gáy, quảy quang gánh sang chợ huyện, đong gạo về bán lẻ cho bà con chỉ đủ tiền mua bữa một, lấy công làm lãi được vài lẻ gạo là đủ no sống qua ngày.
Ngày nào cũng họp, tối nào cũng họp, phải tìm cho ra địa chủ phú nông bóc lột… công việc kiên trì hết ngày này sang ngày khác. Rồi cán bộ Đội vào ở tận nhà dân khêu gợi mọi chuyện, dựng lên mọi tình tiết… cũng được vài ba cuộc đấu tố nực cười: Con tố cha, vợ tố chồng không dấu được sự gượng gạo như chưa thuộc kịch bản. Đau khổ nhất những khẩu súng trường và viên đạn vàng óng nhằm vào ngực người cha góp nhiều công sức cho cách mạng, góp người con anh dũng chỉ huy du kích lập nhiều chiến công được nhiều phần thưởng của cách mạng vẫn phải bịt mắt đứng dựa vào cây gỗ mới dựng…
Khi có chính sách “sửa sai cải cách ruộng đất” mọi việc đã quá muộn
Mọi người quê tôi lại được trở lại đất cũ làm nhà ở sinh sống. Riêng mấy xóm đánh cá: Vạn Bún, Vạn Tác, Vạn Hương và cả làng Đông cùng mấy xóm Chợ Đồng, Hang Dơi vẫn nằm trong khu quân sự.
Chờ đợi ba năm vẫn chưa có bàu cử thống nhất đất nước. Chính quyền miền Nam hô hào Bắc tiến, những nơi trọng yếu vẫn để quân đội kiểm soát gọi là khu quân sự. Sau này chúng tôi mới biết, trong đó có nhiều biệt thự của ủy viên Trung ương Đảng, nơi này đã vạch ra nhiều nghị quyết quan trọng để giải phóng Miền Nam. Cũng là nơi tập kết vũ khí đạn dược, điểm xuất phát con đường mòn trên biển tiếp sức chiến đấu cho đồng bào miền Nam. Bến đó mang tên K15, giữ được bí mật hoàn toàn, kẻ địch không hề biết, không có trái bom nào tìm đến. Và cũng là nơi nhiều người con ưu tú quê tôi ra đi không bao giờ trở về gặp lại người thân…
Làng bên có nghề đánh cá, năm trước nghỉ hè, tôi đã theo xuống thuyền làm một vụ chỉ đủ tiền ăn và cuối vụ được ít tiền mua sách bút. Năm nay lại xin làm lần nữa, hy vọng trúng mùa thắng lớn. Nghề phàng “Reo” cũng đơn giản: Mấy chục thuyền to, mỗi thuyền chờ hai thuyền nhỏ, chạy ra khơi nghe luồng cá di chuyển theo luồng lạch, thuyền quây lại vòng tròn, thả những thuyền nhỏ, có người chèo, người gõ đập ầm ĩ xua đàn cá dồn vào một chỗ, thuyền to buông lưới quây lại một vòng khép kín, trai tráng hò reo kéo lưới thu nhỏ vòng vây dùng vợt vớt cá lên thuyền, trông những mẻ cá quẫy mạnh thục mạng nhưng bất lực nằm lại khoang thuyền. Lâu lắm mới được mẻ cá như vậy, hình như chúng khôn ngoan hơn hay đã tỉnh táo thấy phàng thuyền đến đã chạy xa, mà nghề lưới phàng “Reo” đến nay không còn nữa…
Mỗi gia đình làm ruộng được chia mấy sào đất đang chua mặn, cấy lúa có công làm mà chẳng có thóc ăn, sống nhờ mấy ụ sắn trồng ngay góc sân, mấy thước đất quanh nhà trồng rau xanh trở thành quý giá.
Không thuyền, không lưới, đi dánh cá thuê hết mùa không có người mượn; chăn nuôi giống lợn Móng Cái còi cọc, cả năm được tạ lợn hơi, bán cho Mậu dịch để lấy tem phiếu mua mét vải, cân đường…không thể sống được bằng nghề ấy.
Tôi theo bạn đi câu cáy. Dậy từ mờ sáng, vượt qua rừng sú vẹt um tùm, ra bãi bồi đất đỏ như son ngập ngang bắp gối. Chờ mặt trời mọc, nắng gay gắt cáy dưới lỗ bò lên dày đặc, không nắm được quy luật, một cử động nhẹ, tất cả cáy thụt ngay xuống lỗ. Từ mấy ngày trước tôi đã tập đi nhẹ nhàng, hai đùi phải khép kín, hai chân phải nhịp nhàng; cánh tay khép nách, cổ tay khẽ vẫy lưỡi câu kéo về đều đặn. Động tác này tôi phải tập nhiều lần ở sân nhà, bẹ lá chuối cắt ngắn như con cáy tha hồ giật thử, lưỡi câu hình chùm sáu lưỡi, vất ra góc độ nào cũng có hai lưỡi nằm dưới có thể nhấc con cáy lên không gây tiếng động.
Khi nước rặc, lộ ra bãi bồi đất phù sa tươi rói dài rộng đuối tầm mắt, chúng tôi tụt hết quần áo nô đùa vật lộn, ngâm mình trong bùn trơn mịn mát lạnh, không phải trả tiền như đến khu nghỉ dưỡng du lịch thời nay.
Hết mùa câu cáy, tôi lại theo ông bố đi đánh chim ngói vào chớm mùa thu, sớm tinh mơ đã lên đồi chăng lưới, núp vào lều lá nõn, mắt phải tinh, nhìn từ xa, phân biệt giỏi, đúng đàn chim ngói, tung chim mồi, khi chim đàn bắt mồi, phải vào lều nấp kín giật chim bàn bay lên chỉ vài mét. Cả đàn chim sà xuống phải nhanh tay kéo lưới úp, đôi con tinh ranh quay ngoắt lại cũng không kịp, đập vào sào lưới vỡ đầu, gẫy cánh. Nhiều con chết hẳn mắt vẫn mở trừng trừng trong veo ngây thơ như chưa biết gì tai họa đã đến.
Nhìn những con chim sa lưới thương vô cùng, loại chim này cũng lạ, cả đàn to lớn thấy một con đồng loại là sà xuống đón nhận, không ngờ con người khôn ngoan lợi dụng lòng tốt ấy chăng lưới bắt cả đàn. Thật tội nghiệp. Nhưng con người còn tội nghiệp hơn khi cả tháng không được lạng thịt, cả năm không được bữa cơm no! Nồi cháo trắng có con chim thả vào thành món ăn khỏe người, Chăng lưới bẫy chim như thế cũng không giúp bố tôi giàu có.
Nhiều người đã nghĩ đến lên rừng Việt Bắc, Tây Bắc đốn gỗ, tìm măng, đào củ mài kiếm sống. Có người ra mỏ cuốc đá đào than, lương thợ đào lò nguy hiểm nhưng nuôi sống được mấy người trong nhà.
Gặp người bạn cùng làng, đã cùng gánh đất trên công trường Bắc Hưng Hải, gia đình cùng hoàn cảnh, thấy cùng đường rủ tôi đi làm thuê ở Khu Mỏ có người quen mà tôi cũng biết
Sông Tam Bạc trên bến dưới thuyền. Hàng dẫy người mình trần mồ hôi nhễ nhại nối đuôi nhau vác bao hàng nặng trĩu nghẹo cổ còng lưng gần như chạy trên cầu gỗ, vất bao hàng lên bờ cần mẫn như đàn kiến chuyển tổ…Người bạn đồng hành rỉ tai tôi: “Cho mình làm việc này cũng chịu!”
Chúng tôi mua vé xuống con tàu gỗ, máy nổ kêu ầm ầm rung chuyển rồi tháo neo rời Bến tàu sứt mẻ nham nhở… Con tàu lặng lẽ chui qua cầu nhà máy Xi Măng được cất cao theo giờ để tàu đi lại, nhiều người ra bờ đá lau rửa mặt mũi chân tay, vò rửa quần áo trong dòng sông đục ngầu…
Con tàu đi tiếp vào sông Ruột Lợn, hai bên cây sú vẹt bạt ngàn, đôi chỗ lộ ra bãi bồi phù sa, đôi ba người quỳ gối trên tấm ván lướt nhẹ như có bánh xe lăn trên đường nhựa, đánh bẫy cá lác, vài người cần mẫn câu cáy như năm xưa tôi đã làm…nhưng chắc chỉ đủ bữa ăn, ngừng tay là đói…
Con tàu đi vào Vịnh Hạ Long đẹp đúng như năm xưa tôi đã học đầy quyến rũ, nơi có nhà văn thợ mỏ Võ Huy Tâm trong sách giáo khoa tôi mến mộ. Con tàu gỗ ì ạch làm nhiều người sốt ruột, nhưng chúng tôi nô cười vô tư làm quen nhau như ở cùng làng. Nhiều người khen ngợi chúng tôi đã theo khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” đang được khuyến khích lệ.
Chúng tôi tìm đến người quen nhận xin việc. Thật không may chúng tôi đến nhỡ lớp khai giảng Máy Mỏ. đây là trường mới thành lập đào tạo thợ lái máy khoan máy xúc cho bộ đội chuyển ngành đã lớn tuổi nhiều anh chưa học xong lớp bốn. Trong khi chờ đợi chúng tôi phải làm việc phổ thông đợi khóa tới. Không còn đường nào khác chúng tôi đươc xếp vào tổ xây dựng hàng ngày vác cuốc xẻng đi đào mương rãnh thoát nước quanh khu tập thể. Đào hố quây cót làm nhà vệ sinh tạm bợ, công việc quay vòng nhàm chán tưởng như không bao giờ hết việc, rồi phụ giúp nhà ăn. Nhưng với tôi đã là may mắn được ngồi mát trong nhà, cơm ăn no đủ. Miếng cháy vàng ươm chảo gang, răng cắn vào giòn tan như bánh tây còn nóng. Anh bạn đồng hành ngán ngẩm rỉ vào tai tôi: “Tao phải vào lò cuốc than mới được nhiều tiền”, anh nói ngọt ngào: “Chưa đến kì thanh toán lương, mày cho tao vay ít tiền đến kì lương cứ tên tao kí nhận”.
Tôi chờ đến kì lương lên phòng tài vụ lĩnh tiền, sổ sách rành rành anh bạn đã lĩnh xong xuôi từ ngày nghỉ việc, làm tôi ngơ ngẩn mất tiền và mất đi người bạn xưa nay vẫn quý mến…
Nhà ăn nhận về hàng loạt nồi niêu xoong chảo, Anh quản lí lúng túng lấy đũa bôi nghệch ngoạc những chữ hoa, những con số đến vất vả. Sau khi rửa xong bát đĩa, quét sạch nền nhà Tôi tìm thanh củi nhỏ vót mỏng, cắt bằng đầu nhúng vào sơn viết trông khá đẹp và gọn mắt anh gật gù khen ngợi. Ngày hôm sau anh không cho rửa bát mà kê ghế ngồi kẻ bảng Nội quy nhà ăn to đùng, tôi viết gọn gàng dễ đọc nét nào ra nét đấy.
Hơn một tháng sau lớp học khai giảng, hầu hết bộ đội lớn tuổi to khỏe như lính kéo pháo nhiều người còn mang trên mình vết thương, mảnh đạn… Văn hóa chỉ lớp bốn.
Vào lớp học tình cờ tôi gặp lại người bạn vong niên trong chuyến tàu gỗ đưa chúng tôi ra Mỏ. Không ngờ anh là giáo viên của trường và tôi được anh gần gũi giúp đỡ từng việc nhỏ, nhưng học chưa được nửa khóa tôi tự thấy không đủ sức lên tầng than điều khiển và quản lý những cỗ máy xúc EKG khổng lồ hoặc những mũi choòng khoan đất đá để nạp mìn.
Nhân một lần về thực tập ở nhà máy Cơ khí Hồng Gai ở trung tâm thị xã đông vui, công việc cũng nhẹ nhàng hấp dẫn. Một quyết định khó khăn, tôi từ chối trở về trường trung cấp ở lại học sơ cấp cơ khí thực hành.
NGÀY ĐI LÀM ĐẦU TIÊN
Một buổi đầu hè, tôi được nhận bộ quần áo bảo hộ lao động áo liền quần bằng ka ki “Lỗ” màu xanh đẹp như vải bò ngày nay (Kiểu quần áo này chắc là thí điểm, sau lần ấy không bao giờ xuất hiện) Bước vào cổng nhà máy tôi đã thấy không khí ngột ngạt, khói bụi làm mọi thứ trước mặt mờ ảo như sương mù. Tiếng sắt thép va đập, tiếng máy nổ gầm rú, mặt đất tưởng như chao đảo…
Tôi thừa nhận mình hèn nhát, không đủ cam đảm quản lí những cổ máy xúc máy khoan đồ sộ, vì phải đi làm 5 giờ sáng lên công trường đến tối muộn mới về đến nhà. Tránh cái khổ ấy, vào đây chắc gì sẽ sướng hơn.
Ông tổ trưởng ấn vai tôi ngồi xuống ghế. Mọi người đang bàn tán chuyện gì sôi nổi, khi tôi ngồi xuống ghế tự nhiên im ắng hẳn. Ông tổ trưởng nói lí nhí câu gì mọi người mới ngơ ngác, chắc đang chờ thằng học trò như hộ pháp nào đó nào ngờ lại là thằng ranh trói gà không chặt.
Khi tiếng còi tầm ‘ủ” lần thứ hai cất lên…Ông thợ có tên là Tiến lôi tôi đi: “Làm với anh” Tôi ngơ ngác theo ông thợ bước vào phân xưởng đi qua đầu máy vừa được đại tu sơn hắc in đen xì, bóng nhoáng, than trong nồi bốc cháy rừng rực, áp suất đẩy van “súp sáp” xả hơi nước trắng phun phì phì như nồi cơm khổng lồ bật vung. Đó là đầu máy xe lửa chuẩn bị chạy thử để xuất xưởng.
Đường tàu phía trong là một đầu máy mới vào xưởng, đã tháo rỡ tan hoang, còn trơ lại nồi hơi han rỉ loang lổ. Phía trong nữa là một ống thép do một tấm thép dầy cuộn lại, nơ igiáp mối cuộn chồng lên nhau, có hai hàng lỗ khoan so le thẳng tắp đã được bu lông gá xiết chặt, cẩn thận. Sau này tôi mới biết đó là thân nồi hơi xe “lu” để lăn đường khi rải nhựa.
– Tên cậu thế chó nào mà như con gái thế, còn tớ cứ gọi là Tiến – Tiến chuột ấy… Hôm nay nhóm mình tán đinh nồi hơi này, tôi với cậu đỡ “ba”. Cậu cứ ngồi ngoài này cho mát, tôi vào đỡ bên trong cho cậu… Buổi làm quen anh thợ Tiến với tôi là thế. Tôi ngạc nhiên thấy anh ta có vẻ tốt bụng. Mọi người hối hả hò hét quát thao lẫn nhau, chúng tôi vẫn ngồi rung đùi như chờ đợi.
Anh Tiến lấy trong tủ đồ ra cái bao tải lót để nằm (vì nồi hơi hình ống quá nhỏ không ngồi được) tay lăm lăm cái kích răng vuông đặt lên cục gỗ dày. Bên ngoài, một anh thợ nhóm lò mở gió cho lửa bốc cao ngùn ngụt, rải hàng đinh to như ngón tay cái, có mũ hình chỏm cầu, đặt đinh xung quanh cho đỏ dần, dúi năm bảy chiếc vào giữa, lò lửa bén cháy tung lên như hoa cải mới dùng kìm dài gắp ra đập mạnh vào mặt đe cho rơi sạch sỉ rồi chạy nhanh như cắt luồn vào lỗ khoan trên thân ống, bên trên đã có ông thợ cả và hai thợ lành nghề luôn tay đánh búa nghe giòn giã đến lúc chiếc đinh chuyển màu đỏ hồng, cuối cùng mới dùng kháp thành chỏm cầu như tiêu chuẩn, mọi người mới ngừng tay, ông thợ cả vẫn gọt sửa “ba via” cho đầu đinh tròn đều chắc và kín. Tôi và anh Tiến chỉ có nhiệm vụ đặt đầu kích đúng vòm cầu đinh tán, vặn kích tăng ép chặt cho đinh kín khít, đôi lần tăng kích không kịp để thành khe hở, sau này sửa nguội, tài giời nước cũng dò rỉ khi bơm áp lực 1,5 áp suất làm việc đều lộ hết.
Sau này chính tôi làm nhiệm vụ thanh tra nồi hơi đã nghiệm thấy, ngay khi chưa bơm áp lực, chiếc búa nhỏ như ngón chân, cán dài gõ vào từng đầu đinh nghe tiếng kêu cũng biết rõ cái nào kín, cái nào sẽ dỉ nước. Những lần sai hỏng ông thợ cả quát gắt, chửi ầm ĩ, phải dùng búa to chặt phẳng đầu đinh, lấy đột đánh chục nhát búa cật lực mới lấy được cái đinh hỏng ra ngoài, tháo ra một cái vất vả gấp hai lần làm cái mới. Anh nướng đinh tán phải đóng lại cửa lò chờ đợi…
Thân nồi hơi hình ống, (vì chưa lắp các chi tiết hai đầu) Tôi tưởng anh Tiến tốt bụng nhận phần khó về mình nằm vào phía trong, buổi sáng còn mát mẻ; gần đến trưa thời tiết thêm nóng bức, tôi càng phải chui vào sâu và anh ta càng được lùi ra ngoài tha hồ hưởng gió mát. Thế mới biết cái khôn vặt của người thợ giàu kinh nghiệm là thế. Cái nồi hơi đặc chủng này, không ai muốn đụng đến nó. Không hiểu thế nào ngày vào thực tập đầu tiên tôi lại nếm phải, chui vào trong không thể ngồi, chỉ có thể nằm ngóc cổ lên nhìn và làm những động tác lặp đi lặp lại, ô xít sắt của đinh tán rơi xuống cổ tay bỏng rát, nhiều lúc đỡ không kịp đinh tán rơi xuống cháy quần áo bỏng nặng.
Thời kì này đang thực hiện kế hoạch kinh tế năm năm lần thứ nhất, khai thác than 5 triệu tấn một năm mà phấn đấu ỳ ạch mãi chưa năm nào đạt được.
Công nghệ khai thác than lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, mấy đầu máy kéo than ở mỏ về nhà sàng đã thiếu, đầu máy từ nhà sàng ra cảng lại thiếu hơn… và trục trặc hỏng hóc bất thường như cơm bữa. Đầu máy này đã có mặt ở khu mỏ đây sớm hơn người thợ cao tuổi nhất, không ai đếm được bao nhiêu lần vào trung đại tu, thay mới trong ruột gan và bây giờ thay mới cả thân xác chính của nó (nhưng vẫn theo quy trình và thiết kế cũ) Mặt sàng và ống lửa thay thường xuyên, cùng những phụ kiện khác).
Thế kỉ trước, các nước phát triển phương Tây, vận chuyển đường bộ chủ yếu vẫn là sức lực con người và súc vật
Năm 1814 công trình sư người Anh mới hoàn thiện chế tạo xe lửa chạy hơi nước trên đường ray mở ra kỉ nguyên mới cho nền công nghiệp vận chuyển. Bây giờ thiết bị và công nghệ họ đã tiến mạnh như vũ bão, đầu máy điêzen đạt được tốc độ phi thường…
Đã một trăm năm mươi năm rồi, tôi cùng những người thợ ở đây vẫn sử dụng sửa chữa những cỗ máy ấy theo quy trình công nghệ cũ của họ đã sản xuất, đôi khi những loại cũ kĩ ấy vẫn còn thiếu không có để dùng.
Sau ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, mới bỏ được công nghệ đinh tán. Các mối kết cấu được sử lí bằng công nghệ hàn điện hồ quang, nhưng phải đào tạo một đội ngũ thợ thật khắt khe, có đôi mắt và tay nghề thật điêu luyện, các mối hàn đều được kiểm tra bằng siêu âm và chụp hình bằng tia “gama” để nhận biết bọt khí và ngậm xỉ cùng các vết rạn nứt, nếu phạm lỗi phải đục vát góc mở rộng hàn đắp lại từ đầu…
Học hành nghiêm chỉnh, thợ được rèn luyện công phu, làm được một hai đầu máy rồi xếp xó vì tất cả cái đó đều lạc hậu nên giá thành rất đắt. Đầu máy hơi nước hoàn toàn được loại bỏ. Nhà ga Đà Nẵng, nhà ga Vinh đã tôn sùng nâng niu đưa đầu máy cao lên coi như biểu tưởng một thời văn minh đã tắt…
Ước tính có khoảng mười vạn sáng chế của các nhà chuyên môn. Năm 1885 kĩ sư người Đức mới chế tạo thành công động cơ đốt trong hoàn chỉnh như đầu tàu và ô tô ngày nay.
Sau cái ngày tôi tán đinh nồi hơi xe lu lăn đường, cố gắng để mắt tìm mà không bao giờ gặp lại. Bạn tôi ở Sở giao thông công chính cười ngặt ngẽo: “Nó được xả thịt bán sắt vụn thời kì đất nước bị cấm vận, phải bán ăn dần, bán ăn sạch” ra nước ngoài tìm cũng khó thấy!
Trường mỏ, hệ trung cấp đặt ở chân núi nằm ngoài thị xã, chủ yếu nhận các anh bộ đội phục viên chuyển ngành vào học cấp tốc lên tầng than quản lí máy khoan máy xúc… Một cơ duyên tôi lạc lõng trong đó. Ngày về nhà máy Cơ khí thực tập, mọi người đều háo hức xin về các tổ máy làm việc. Tôi thấy mọi thứ đều xa lạ, cứ ngơ ngác như chờ đợi. Một tổ công nhân vác thang xách thùng sơn đi tô màu hàng khẩu hiệu đã bạc màu, tôi thấy công việc khá hấp dẫn nên tự nguyện theo nhóm này làm việc.
Ai ngờ công việc này cuốn hút tôi đến say mê, một lần dựng thang, tôi tô màu được chữ bên phải, lại đổi bút sang tay trái viết được chữ nữa, nét bút lại gọn sạch đều hàng tăm tắp trông khác hẳn cả tốp làm mấy hôm trước. Thế là tôi được làm công việc mình thích thú, không phải vào xưởng máy ồn ào những khói bụi. Việc này lọt vào mắt phòng giáo vụ Công ty. Hết kẻ khẩu hiệu trên tường cao, lại kẻ đến chữ “Phăng ti di” tên tờ báo tường, chép lại các bài thơ, hò vè và vẽ minh họa. Việc này từ ngày còn học phổ thông, đội cải cách ruộng đất đã trưng dụng về viết tài liệu bằng mực tím, in trên bột gạo. Kiểu chữ in thường, mực đặc, in càng được nhiều bản. Việc này tôi quá thông thạo. Báo tường tôi càng quen thuộc, bài thơ hò vè ngắn có thể viết nghiêng nắn nót, nét đậm nhạt kiểu cổ điển, bản tin thi đua xã luận lại lấy mẫu chữ in “li tô” đều nét, thẳng hàng tăm tắp như đã in trên báo. Vì tiếc công phí sức, sợ tốn giấy hao mực phải viết nhiều chữ “thì… thì”, “mà… mà” trong bài xã luận, tôi tự ý bỏ đi. Thậm chí đảo mệnh đề này lên trên, mệnh đề kia xuống dưới. Lúc đầu còn đưa duyệt, sau được lệnh: “Chú cứ sửa cho dễ hiểu là được!”
Ngày ở trường tiểu học, ông bố ngủ trưa bao giờ cũng bắt tôi đọc vài hồi truyện võ hiệp: “Bồng lai Hiệp Khách, trinh thám Dao Bay…” có lần mải chơi xé vài tờ đá cầu, thế là phải ngồi nhớ lại cốt truyện, thuộc lòng các thế kiếm thế võ viết nối tiếp dẫn dắt câu chuyện không bị ngắt quãng…để xin được đồng bạc tiền thưởng ăn quà. Bây giờ lại có tác dụng tổng hợp soạn các bản tin của các mỏ gửi về viết ngắn gọn đưa lên báo tường và đọc thành tích trên loa truyền thanh công ty…
Nhà trường vẫn hối thúc phải vào nhà máy thực tập. Và hôm nay ngày làm việc đầu tiên của tôi là như thế!
L.B.H