Vinh cháy – Truyên ngắn của Ngô Xuân Tiếu

… “Cứ mỗi lần phơi lại áo quần, Vinh cháy lại hôn chiếc áo như vậy suốt mấy chục năm qua. Chủ chiếc áo kia là ai? Không hiểu vì sao lão không lấy vợ. Hay cháy mất “chim” rồi cũng nên? Hai ông khách cười…

..“ Cứ mỗi lần phơi lại áo quần, Vinh cháy lại hôn chiếc áo như vậy suốt mấy chục năm qua. Chủ chiếc áo kia là ai? Không hiểu vì sao lão không lấy vợ. Hay cháy mất “chim” rồi cũng nên? Hai ông khách cười…

Vòm trời cao xanh, gió thổi mênh mang phơ phất bờ lau bao quanh vùng đồi cây keo cao vút. Tiếng chim họa mi, chim cu, chào mào…gọi bạn tình thao thiết, như bản hợp xướng giữa vùng trời trung du. Tôi nhận li cà phê từ tay ông chủ quán Gió núi, mặt mũi dị dạng, nhưng ứng xử lịch lãm, pha cà phê rất ngon. Thật khó đoán tuổi người chủ quán. Chỉ kịp nhận ra mái tóc ông đã lấm tấm muối tiêu…

Có thêm hai khách vào quán gọi: “ Vinh cháy” cho hai cà phê đá! Qua cách gọi của hai người khách quen mặc áo lính đã bạc mầu tôi nghĩ, cái tên ghép của chủ quán hẳn là có uẩn khúc gì đây?…
Gió luồn lách qua sườn núi lướt nhẹ vào thung lũng, xoay tròn những chiếc lá vàng bay xào xạc… Tôi ngồi nhâm nhi li cà phê thơm phức, phóng tầm mắt ra triền đồi thoai thoải đổ nghiêng xuống bờ sông, thấp thoáng những ngôi nhà được xây cất đẹp trong miệt vườn cây thế, cây cảnh, và hoa đủ sắc mầu. Dưới chân núi đàn trâu, bò hàng trăm con đang gặm cỏ, tiếng mõ trâu lốc…cốc… thanh bình trong nắng gió thu.

Vinh cháy đem quần áo ra hong nắng ngoài thềm. Ông vuốt phẳng các nếp nhăn trên chiếc áo quân phục nữ, thỉnh thoảng lại ghé môi hôn, như muốn uống mùi đặc trưng của chiếc áo. Hai người khách quen vừa uống cà phê vừa trỏ vào Vinh cháy, nháy mắt… bấm nhau

“ Cứ mỗi lần phơi lại áo quần, Vinh cháy lại hôn chiếc áo như vậy suốt mấy chục năm qua. Chủ chiếc áo kia là ai? Không hiểu vì sao lão không lấy vợ. Hay cháy mất “chim” rồi cũng nên? Hai ông khách cười… 
Nhiều cô gái tình nguyện đến với lão, hắn đều khôn khéo khước từ. Có cô khóc vì thương anh thương binh, tủi cho duyên phận mình… Từ khi Vinh cháy về đến nay, người làng biết anh là thương binh loại hai, được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba trong kháng chiến chống Mỹ. Cái tên Vinh cháy gắn liền với chiến công của người lính lái xe trên đường Trường Sơn. Anh bị bom na pan làm bỏng nặng mặt, mũi, biến dạng… may còn hai con mắt.”
Do sự nhạy cảm nghề nghiệp tôi nghĩ, Huân chương chiến công hạng ba không dễ có. Thương tích thế kia, phải là những chiến binh quả cảm mới có được!

Qua câu chuyện từ hai ông khách quen cùng uống cà phê tôi nghe được: Vinh cháy nguyên là đại đội trưởng lái xe của một đơn vị anh hùng, thuộc đoàn 559 bộ đội Trường Sơn. Tôi nghĩ, phải tiếp cận ông Vinh cháy, có thể mình viết được cái gì đó về ông cũng nên. Đại đội trưởng xe vận tải, đơn vị anh hùng chắc nhiều chuyện lí thú lắm. Bằng mọi cách phải tiếp cận kho vàng ròng này!
Hai ông khách nọ gọi chủ quán ra thanh toán, rồi lên xe đi thẳng. Lúc này, mình gợi chuyện là tốt nhất, tôi nghĩ vậy. Lựa lời trò chuyện với ông chủ quán:
-Thưa bác Vinh, cháu có thể gọi cả tên đệm của bác không. Vì thấy khách gọi bác “Vinh cháy” rất thân tình, có phần chia sẻ, ngưỡng mộ bác nữa?
-Ồ, cứ tự nhiên. Cái tên Vinh cháy do anh em trong trại điều dưỡng đặt, cho dễ phân biệt với người cùng tên, gọi mãi thành quen, không bận tâm làm gì.
-Cháu là nhà báo, muốn làm một phóng sự cho ngày thành lập quân đội 22-12, thật may được gặp bác. Tôi đưa tấm thẻ nhà báo, chứng minh thư cho ông xem, ông lướt qua tấm ảnh trong thẻ nhà báo, rồi nhìn tôi tươi cười:
– Ồ, anh cũng họ Lê, à? 
– Vâng. Tên đầy đủ của cháu là Lê anh Tuấn, thưa bác.
– Còn tôi, là Lê nguyên Vinh. Mọi người quen gọi là Vinh cháy, cháy mặt ấy mà. Da mặt tôi bây giờ có thịt, da của đồng đội, vì phải vá víu lại mới được thế này! Rồi ông cười khà…khà…tiếng cười vừa ấm, vừa vang. Nếu chỉ nhìn vào gương mặt dị dạng kia thì thật khó gần, nhưng hóa ra ông là người dễ mến. Cũng phải thôi, ông là đại đội trưởng kia mà. 
– BácVinh cháy có thể kể cho cháu về chiến công bác được thưởng HCCC hạng ba và những kỷ niệm sâu sắc một thời bom đạn không, thưa bác? 
– Ôi, chuyện thì có, nhưng buồn và dài lắm. Trời sắp tối rồi, thôi để lúc khác. Mời anh uống nước. Anh còn ở đây vài hôm, hay phải đi ngay? Dạ, mai cháu ghé lại đây nghe bác kể cũng được.

Nắng chiều nhạt dần. Hoàng hôn nhuộm tím mặt sông, mặt trời sắp lặn.Tiếng chuông chùa binh…boong thả vào khoảng trời yên ả. Đàn trâu, bò no tròn nối đuôi nhau xuống núi, tiếng bê nghé gọi mẹ: Nghé ọ…o.,.,bi be…e, như tiếng vĩ cầm, bản nhạc đồng quê khi chiều về nhiều cảm xúc thật đẹp…
Đã cuối thu, vùng trung du trời tối rất nhanh. Hôm nay, Vinh cháy đi nằm sớm hơn mọi hôm, nhưng thao thức không ngủ được. Ông lại đem tấm ảnh chụp chung ba người ra ngắm nghía, rồi soi gương nhìn mặt, mũi kỳ quái của mình cố nén tiếng thở dài ngao ngán phát ra từ sâu thẳm… Những ký ức vui, buồn về mối tình đầu đã lặn sâu, lúc này có dịp hiện rõ trong tâm trí ông:

Vinh cháy nhớ hình ảnh cô y tá, người đã chăm sóc mình suốt mấy tháng trời ở trạm xá tiền phương. Bón cơm, tiếp máu, cô ấy hiến cả da thịt để bác sĩ cấy, vá mặt mình. Hóa ra, mình bị thương, cô ấy cũng mang thương. Bởi vì, lấy da thịt người này, cấy ghép sang người kia, đâu phải cắt ra là ghép ngay được. Người cho phải mang viết thương trong thời gian “ nuôi mô.” Nghĩ đến đây, ông khóc nức nở như đứa trẻ. Vì thương nhớ người yêu và thân phận mình, không thể chia sẻ với ai. Nếu ngày ấy không gặp em tình nguyện cắt da thịt cô ấy cho mình, thì phải cắt ngay cơ thể mình vá cái mặt này, như mọi người. Trằn trọc mãi rồi ông thiếp đi lúc nào không biết. Sáng ra, trời đổ mưa. Vinh cháy chẳng vội dậy làm gì, mưa gió thế này ai vào quán. Định bụng nằm thêm chút nữa, nhưng hình như có tiếng ai gọi, ông vội ra mở cửa.

-Ôi, chào nhà báo. Mưa gió thế này,…ông bỏ dở câu,… mời anh vào trong nhà. 
Thế đêm qua anh nghỉ ở đâu, mà đến đây sớm thế?
-Cháu nghỉ tại nhà khách ủy ban huyện ta bác ạ.
-Thế thì ngay đây thôi. Mời anh dùng trà, ta uống cà phê lai rai sau nhé.
-Vâng cảm ơn bác.
Tôi nhấp ngụm trà hương sen thơm ngát, vào buổi sáng thanh tâm, mới cảm nhận hết hương vị thơm ngon tinh khiết của nó lan tỏa trong vị giác, khứu giác thật thú vị. Đúng là “danh bất hư truyền.” Về trà sen, và cà phê Vinh cháy ở quán Gió núi thật tuyệt.

Có dịp, tôi quan sát căn nhà mái bằng khoảng hơn bẩy chục mét vuông, một phòng khách, một phòng ngủ, bài trí gọn gàng, sạch đẹp.Tôi chú ý đến tấm ảnh ba người lính, hai nam, một nữ đứng giữa, phóng to treo trang trọng giữa phòng khách. Cũng vừa lúc ông Vinh cháy đem hai phin cà phê tỏa hương thơm ngào ngạt đặt trên bàn.
-Nào, mời anh Tuấn thưởng thức cà phê Trung Nguyên, Vinh cháy pha. Cùng một lọai cà phê, nhưng cách pha khiến chất lượng khác nhau. Cũng như cây bút các nhà văn, nhà báo các anh cùng viết một chủ đề, nhưng chất lượng văn học nghệ thuật khác nhau. Ông cười hóm hỉnh tiếp: 
-Trưa nay, mời anh ở lại dùng cơm với tôi. Chả mấy khi nhà văn, nhà báo đến nhà. Dẫu thất nội trợ, tôi sẽ tự làm vài món nhắm, ta lai rai cũng chẳng đến nỗi đâu!
-Vâng. Cháu cảm ơn bác.

-Tấm ảnh ba người treo trên tường kia, có bác ở trong đó không? Tôi rụt rè hỏi. 
– À, để tôi giới thiệu: Đứng bên tay trái là bác sĩ Việt, trưởng khoa ngoại, người phẫu thuật chỉnh hình cho tôi. Ông này giỏi lắm, được mệnh danh người có đôi bàn tay vàng. Người đứng giữa là cô Hạnh y tá trưởng, đã tiếp máu, và hiến cả da thịt cho tôi vá lên cái mặt này. Người cuối cùng đứng bên tay phải là Lê nguyên Vinh, khi hai mươi lăm tuổi. Anh nhìn Vinh hôm nay, với Vinh ngày xưa thấy hai thằng này có gì khác nhau không?…Rồi ông cười chua chát… 
-Thú thật, tôi không dám nhìn vào gương mặt dị dạng người không ra người, ma chẳng ra ma của ông lúc này. Vì hình ông trong ảnh là một người tầm thước, đẹp như người mẫu. Nhìn hai gương mặt đối lập nhau tôi không thể cầm nước mắt. Một sự hy sinh trong muôn vàn hy sinh của người lính bước ra khỏi cuộc chiến đã lùi xa mấy chục năm, chẳng làm ta suy ngẫm đó sao? Tôi tự chấn tĩnh mình bằng câu hỏi ông Vinh:

-Thế, chiến tích của bác về chiếc HCCC hang ba, thì sao thưa bác? 
– Cũng đơn giản thôi: Mùa xuân năm 1975, đơn vị tôi nhận lệnh thượng khẩn: “ Sau ba giờ, phải có năm xe đạn ĐKB đến điểm X!” Nhận lệnh, xe tôi đi trước. Mới đi chừng nửa đường thì máy bay địch phát hiện, chúng chặn đầu khóa đuôi, bắn đạn 40li xối xả, ném bom phá, bom na pan. Tôi bật đèn pha thu hút hỏa lực địch về mình, lệnh cho 4 xe sau rẽ vào đường tránh, tiếp tục đi! Khi xe tôi giao hàng xong quay ra, thì đồng chí lái xe số 2 hy sinh. Chiếc xe vẫn nổ máy, tôi vừa bước vào buồng laí, thấy đau nhói ở cẳng chân, không kịp băng bó, tôi đạp tẹt ga lái chiếc xe chạy hết tốc độ. Giao xe hàng thứ hai xong. Tôi băng vết thương, quay ra tìm xe số 5, đi được một đoạn, tôi chỉ kịp nghe một tiếng nổ “bụp” một quầng lửa như máu trùm lên xe…Khi tỉnh dậy biết mình đang nằm trong trạm quân y tiền phương, nhờ các đồng chí công binh trực chiến trên đoạn đường này đưa đi cấp cứu. Tôi gặp cô Hạnh ở đó, quen nhau, thương nhau, rồi yêu nhau. Một mối tình thật đau và rất đẹp! 
Tôi biết cô ấy thương yêu mình nhưng tôi không thể cầu hôn. Vì không muốn cô ấy phải lấy một người mặt mũi như quỷ thế này. Hạnh có quyền chọn những chàng trai tuấn tú hơn tôi vạn lần, giữa rừng đàn ông trên đường Trường Sơn. Người như Hạnh lúc nào cũng là hoa khôi đại ngàn!

– Khi nào thì hai bác tổ chức cưới, tôi hỏi. 
– Chưa cưới, coi như đã cưới!
– Trước khi tôi ra Bắc an dưỡng chuẩn bị làm đám cưới, hai đứa gặp nhau ở trạm xá tiền phương một đêm, chuyện tình cảm của chúng tôi đã báo cáo với binh trạm, lãnh đạo biết và tạo điều kiện cho chúng tôi gặp nhau trước lúc cưới. 
Đêm ấy, chúng tôi sống với nhau như vợ chồng, với bao khát khao và hy vọng. Nhiều lúc tôi ôm cô ấy khóc. Khóc, vì tình đồng đội yêu thương nhau như ruột thịt. Khóc, vì tình yêu lứa đôi gắn bó keo sơn. Khóc, vì tinh thần xả thân cứu bạn. Khóc, vì máu và thịt da cô ấy đang hiện hữu trong người tôi. Khóc, vi cô ấy rất đẹp!..Tôi có đáng được hưởng cái hạnh phúc này không, khi mặt dị dạng như quỷ thế này? Tôi cứ nghĩ như vậy mà bao đêm không ngủ. Ông Vinh kể tiếp:

– Chia tay nhau được một tháng ba ngày, B.52 trút bom vào trạm xá tiền phương, cô Hạnh hy sinh khi cứu đồng đội. Kể đến đây ông Vinh khóc nấc lên… Nghe tiếng khóc của người già, nhất là hoàn cảnh của ông, tôi không dám hỏi gì thêm. TRời ơi, tôi đã chạm vào nỗi đau của ông Vinh cháy. Chúng tôi thế hệ con cháu ông Vinh cháy phải làm gì cho xứng đáng với những hy sinh mất mát của cha ông mình? Câu hỏi ấy cứ day dứt trong tôi mãi.
-Xin lỗi bác Vinh cháy, cháu lỡ chạm vào nỗi đau của bác. Thật tội, đã làm bác buồn. 
– Không sao đâu anh Tuấn. Có người chia sẻ tôi thấy vơi bớt nỗi đau. Cảm ơn anh đã đến quán Gió Núi. Chuyện có thế, anh viết được gì thì viết.

Hai bác cháu tôi vào bếp chuẩn bị bữa cơm trưa, làm vài món: Gà ri đảo mẻ, cá hấp, nem chua, hoa chuối nộm. Rượu nút lá chuối rất thơm ngon. Khi ngà ngà rượu, tôi buột miệng hỏi:
-Sao bác không kiếm cô … ô…, biết mình lỡ lời tôi không nói hết câu…Ông Vinh cháy giải thích:
– Trước khi về địa phương khám lại sức khỏe, mình dính thêm chất đọc da cam. Được tăng hạng từ thương binh loại hai, lên loại một. Nhưng bác sĩ khuyên: “không nên sinh con.” Nên mình không muốn làm khổ vợ con nữa! Tôi đã vào Quảng Bình, tìm nuôi cháu Nguyễn Cường, con liệt sĩ Nguyễn văn Thanh, người lái chiếc xe số 2. Mẹ cháu Cường mất vì bệnh ung thư lâu rồi. Cường đang học đại học năm thứ hai.Thấm thoát đã hơn chục năm, hai cha con tôi sống ở quán Gió Núi. Nhà vắng bóng đàn bà, nhất là khi ốm đau, giỗ tết, lúc có khách cũng tủi lắm anh Tuấn ạ. Người xưa nói “Giàu vì bạn, sang vì vợ.” May có sự đùm bọc của nhân dân. Nhất là bà con ở xóm núi này. Mong sao đất nước mình luôn sống trong hòa bình, ngày càng giàu mạnh thì ta chả tiếc máu xương!

NXT.

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder