
Nhà ẩn sĩ phá lên cười và vội vàng cất giấu rượu và đồ nhắm. Hiệp sĩ áo đen cố tạo một sắc mặt nghiêm chỉnh nhưng cố gắng lắm anh cũng không nhịn được cười; tiếng cười của anh được tiếng cười của ông bạn ẩn sĩ kỳ dị hòa theo.
Trần Kiểm dịch và giới thiệu…Nhà ẩn sĩ phá lên cười và vội vàng cất giấu rượu và đồ nhắm. Hiệp sĩ áo đen cố tạo một sắc mặt nghiêm chỉnh nhưng cố gắng lắm anh cũng không nhịn được cười; tiếng cười của anh được tiếng cười của ông bạn ẩn sĩ kỳ dị hòa theo.
Trần Kiểm dịch và giới thiệu…
Chương 8
Sau ba tiếng đi gấp trong rừng, Wamba, Gurth và người dẫn đường bí hiểm tới một cánh rừng thưa, ở giữa có cây sồi to cao, cành lá um tùm xòe ra bốn phía. Năm hay sáu yeomen ngủ dưới bóng cây còn một người canh gác đi đi lại lại dưới ánh trăng.
Nghe tiếng bước chân, người gác báo động.
Mấy người kia chồm ngay dậy, vớ vội lấy cung và sẵn sàng bật lẫy. Thủ lĩnh của họ đánh tiếng, họ tỏ ngay vẻ kính trọng và phục tùng thay vì thái độ cảnh giác đáng sợ vừa rồi. Cái lo lắng gặp nhau có va chạm biến mất.
Nhiều người được tỏa đi báo động cho những người ngoài vòng pháp luật biết. Họ phải tập họp nhau ở gần lâu đài Frontđe-Boeuf. Thủ lĩnh băng nhóm mũ xanh quyết định mang quân đến hỏi tội tên hiệp sĩ phản nghịch và giải thoát cho những người mới bị bắt.
– Còn nhà ẩn sĩ trước ở nhà thờ thánh Dus-tan đâu? – Ông hỏi.
– Ở trong lều của ông ấy. – Một người trả lời.
– Ta trực tiếp đến tìm ông, nói hãy tạm ngừng cầu kinh. Còn hai anh, – Ông quay sang hỏi Wamba và Gurth, – hai anh sẽ đi theo tôi chứ?
Wamba và Gurth ngạc nhiên hơn là thấy Lock-sley quyết định đi đánh lâu đài kiên cố Frontđe-Boeuf với một vẻ cương quyết lớn đến thế.
Anh rồ rất muốn nói thêm nhưng vừa sợ vừa kính trọng, anh không dám hỏi người kia, người bắn cung giỏi nhất nước Anh, người mà tất cả dân outlaws đều răm rắp nghe theo lệnh. Wamba nghĩ khôn ngoan nhất là đừng làm phật ý một người rất oai phong mạnh mẽ và không muốn để cho ai vô kỷ luật.
Ba người đi về phía nhà thờ Coopmanhurst.
Lát sau họ tới một cánh rừng thưa ở đó túp lều của ông ẩn sĩ hiện ra như một chấm đen dưới ánh trăng.
Gurth và Wamba dừng chân một lúc sững sờ nhìn nhau. Đó có phải là vì cái buồn toát rạtừ phong cảnh trong đêm ấy hay họ sợ hãi vì phải đứng trơ vơ trong khi những cánh rừng xung quanh có thể che giấu một cạm bẫy gì đấy?
Không đâu!
Họ nghe thấy một giai điệu Saxon nhưng câu hát không giống chút nào với những bài thánh ca thường thấy các nhà ẩn sĩ hay hát.
– Đó là một cách để tĩnh tâm và suy tưởng độc đáo. – Wamba không thể không nhận xét như vậy.
– Nhưng không phải là một giọng đơn cạ – Đ ến lượt mình Gurth nhận xét.
– Điều ngược lại mới làm tớ ngạc nhiên. -Anh hề nói tiếp. – Cứ cái kiểu ca tụng thánh Dustan như thế này thì cái ông ẩn sĩ nhà ta không ở một mình là phải thôi.
– Thôi đi, hai anh bạn, – Locksley ngắt lời, – tiến lên nào! Wamba, cậu có vẻ ngạc nhiên khi nghe thấy một bài hát ca tụng ma men chứ không phải bài thánh ca buổi sáng ở cửa miệng một ông ẩn sĩ đấy nhỉ?
– Có lẽ là hai ông ẩn sĩ. – Wamba chỉnh lại.
– Thế ông không nghe thấy cái giọng song ca có khả năng đánh thức thánh Dustan đi ra khỏi nấm mồ sao?
– Frère của chúng ta là một người vui tính kiêm bắn trộm giỏi. Những anh gác rừng nhà vua biết ít nhiều chuyện ấy rồi đấy! Nếu nhà vua bây giờ ở đây, Người sẽ phiền lòng khi biết chuyện trong rừng của mình lại có một anh chàng chuyên nghiện thịt hươu tạm trú.
Vừa nói, Locksley vừa đập gấp cửa nhà ẩn sĩ, phá đám hai gã đang chén tạc chén thù, hẳn các bạn còn nhớ.
– Thề có thánh Dustan! – Nhà ẩn sĩ kêu lên.
– Có lẽ có thêm những lữ khách lạc đường. Họ nghĩ gì về những bài thánh ca chúng ta vừa hát nhỉ? Những kẻ hay nói xấu có thể sẽ nhắc đi nhắc lại chỉ nghe thấy ta ca ngợi rượu và thịt hươu. Thế thì thanh danh ta bị tổn thương rồi!
– Chính lời lẽ của anh phản ánh sự khôn ngoan đấy, nhà ẩn sĩ ạ. – Hiệp sĩ áo- đen Lười-biếng ngồi cạnh nói. – Bởi vậy, hãy giấu cốc chén đi và đậy ngay chỗ patê này lại nếu anh muốn các vị khách kia tin lời anh.
Nhà ẩn sĩ phá lên cười và vội vàng cất giấu rượu và đồ nhắm. Hiệp sĩ áo đen cố tạo một sắc mặt nghiêm chỉnh nhưng cố gắng lắm anh cũng không nhịn được cười; tiếng cười của anh được tiếng cười của ông bạn ẩn sĩ kỳ dị hòa theo.
Những tiếng chó sủa xen vào những tiếng ồn ào ấy. Một lữ khách nào giả thử lạc vào nơi đây sẽ tưởng mình nghe thấy những tiếng reo hò của một sápba kỳ dị mà quỷ sứ nắm tay các phù thủy nam, phù thủy nữ nhảy điệu vòng tròn dưới ánh trăng.
– Này, ẩn sĩ, có mở cửa ra không? – Locksley sốt ruột kêu lên. – Hay để đây phải đạp cửa đấy?
– Anh hãy đi đường anh, đừng quấy ta khi đang cầu nguyện. – Nhà ẩn sĩ đáp.
– Này, mở ra, Locksley đây nhé!
Cửa vội mở. Locksley bước vào có hai bạn đường cùng theo là Gurth và Wamba.
– Anh ẩn sĩ, – Locksley nói khi trông thấy chàng hiệp sĩ, – anh kiếm đâu ra ông bạn mới đấy?
– à, đấy là một frère thuộc dòng tôi. Chúng tôi đang đọc kinh cầu nguyện. – Nhà ẩn sĩ mỉm cười giải thích.
– Người dòng nhà anh mặc áo giáp từ khi nào đấy?
– áo giáp ấy ư?
– Thôi đi, anh uống quá say rồi đấy. Hiệp sĩ này là người thế nào?
– Tôi…
– Chính anh cũng không biết tên! Thật là mất cảnh giác; sự an toàn của chúng ta bị đe dọa khi anh bạ ai cũng…
Hiệp sĩ kia cắt ngang lời:
– Hãy thôi, anh bạn bắn cung tài hoa ạ. Một ngày kia anh sẽ biết tôi là người như thế nào.
Nhưng, bây giờ chưa phải lúc. Còn với nhà ẩn sĩ này, anh ta chẳng sai sót gì; anh không dám chối từ cho tôi trú chân vì tôi tự ý xông vào.
– Tự ý à! Hãy đợi ta cởi áo thầy tu này ra, để xem… – Nhà ẩn sĩ nói.
Wamba nghĩ:
– Có lẽ đây là lúc nhà ẩn sĩ thánh thiện của ta hiện nguyên hình là một anh săn bắn trộm chính cống.
Trong khi nghe nhà ẩn sĩ nói, Locksley nhận rõ mặt Hiệp sĩ áo đen Lười, liền tiến lại gần nói:
– Lấy danh dự là một người Anh, tôi xin cám ơn anh đã giúp đỡ có hiệu quả hiệp sĩ Déshérité của chúng tôi. Ôi! Xin anh đừng chối, chính anh, tôi nhận ra rồi, chính anh là người quyết định thắng lợi ngày thứ hai thi đấu ở Ashby.
– Tôi xin cám ơn thay cho chủ tôi. – Gurth tỏ lòng biết ơn nói thêm.
Thủ lĩnh của những kẻ ngoài vòng pháp luật nói tiếp:
– Cứ xem cách anh xen vào giữa trận đấu thì tôi biết tôi đã gặp một hiệp sĩ chân chính đây.
Xin hỏi anh, anh có sẵn sàng đi cứu giúp kẻ yếu không, sẵn sàng đi giải phóng những lữ khách khốn khổ bị một tên hiệp sĩ phản nghịch và kẻ cướp bắt đi không.
– Bổn phận của tôi là vậy. – Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
– Thế thì hãy đi với chúng tôi đến nhà Frontđe- Boeuf đầu bò đòi hắn và các bạn hắn là Brian de Bois-Guilbert và De Bracy trả lại tự do cho ngài Cedric de Saxon và Athelstane, người bạn của ngài. Lady Rowena cũng là nạn nhân của những tên ngoại bang đáng nguyền rủa ấy…
– Tôi sẽ đi theo anh, anh là một người Anh chân chính nhưng anh chưa cho tôi biết quý danh là gì. – Hiệp sĩ áo đen cười nói.
– Tôi không có họ, có tên… có chăng chỉ là người bạn của những người nghèo và của tự do.
– Locksley thành thật nói.
Nhà ẩn sĩ quẳng chiếc áo thầy tu vào một xó rồi chụp vào đầu cái mũ xanh. Người ta không thể phân biệt ông với những người khác trong băng nhóm Locksleỵ Khi ra khỏi lều, ông ngụp đầu vào một chậu nước để phả hơi rượu.
– Thề có thánh Georges, những thằng kẻ cướp đó ở đâu, đến đây ta xẻ chúng mày ra thành muôn mảnh. – Nhà ẩn sĩ nói, giọng rít lên hợp với lời lẽ đó hơn là với lời trong những bài thánh ca.
– Thôi hãy im đi, hãy rảo bước lên, đã đến giờ ở điểm hẹn! Đến lâu đài của Frontđe-Boeuf nào. – Hiệp sĩ Noir-Fainéant nói.
– Tiến lên hỡi anh em, tiến đến lâu đài Frontđe- Boeuf! – Ông frère, con người không sửa chữa được hô to.
Năm người bạn biến trong rừng tối.
Rừng thưa trở lại im ắng… Không người nào có thể nói được, trước đây ít lâu, đã có những.người đến đây phá rối cái yên tĩnh này bằng những lời ca tụng rượu và thịt dâng lên… thánh Dustan!
Trong khi họ huy động mọi lực lượng để giải thoát cho Cedric và các bạn đồng hành thì những người này đã bị bọn cướp dẫn về nơi an toàn để giam giữ. Nhưng vì đêm tối, những tên đi ăn đêm này chỉ biết rất lơ mơ đường đi lối lại trong rừng, buộc chúng phải nghỉ làm nhiều chặng.
Do đó hai tên cầm đầu bọn giả hiệu làm những tên ăn cướp trao đổi với nhau:
– De Bracy này, – thầy dòng templier nói, – đã đến lúc anh phải chia tay chúng tôi để diễn hồi hai tấn kịch chúng ta dựng, anh phải chuẩn bị để sắm vai người hiệp sĩ giải phóng.
– Tôi đã nghĩ lại rồi, – De Bracy nói, – tôi chỉ tạm biệt người tôi cướp được sau khi đã đặt anh ta vào nơi an toàn trong lâu đài của Frontđe- Boeuf. Lúc đó tôi sẽ ra trình diện với lady Rowena trong bộ áo hàng ngày, và tôi hy vọng nàng sẽ cho hành động bạo lực mà tôi nhận phần trách nhiệm là do cái bồng bột của một tình yêu say đắm mà thôi.
– Lý do gì làm anh thay đổi ý kiến?
– Cái đó chỉ mình tôi biết, tôi cho là thế. -Brian de Bois-Guilbert hết nhìn lady Rowena lại nhìn Rebecca, điều đó làm De Bracy thay đổi ý kiến. Anh đã biết tiếng những thầy dòng templier, anh sợ rằng anh gặp ở Brian không còn là một người đồng minh nữa mà là một địch thủ không dễ nhường bước như đã thỏa thuận. Đến lâu đài Frontđe-Boeuf, De Bracy nhận thấy ông templier thèm muốn Rebecca có sắc đẹp thật kỳ diệu, chứ không phải lady Rowena như có lúc anh đã sợ là thế.
Cedric và Athelstane bị nhốt cùng với nhau; người ta dọn cho hai người một bữa ăn thịnh soạn; điều đó cho thấy Frontđe-Boeuf muốn đòi tiền chuộc hậu hĩ mới thả tự do cho bọn họ.
Hai người chưa kịp ăn sáng đã bị quấy rầy trong cái công việc thực thi rất quan trọng đó, ít nhất là với Athelstane, bởi một tiếng tù-và rúc ở ngoài cổng, rúc đi rúc lại ba lần khiến người ta nghĩ người thổi phải là một hiệp sĩ giang hồ mà khi người đó sờ vào tường thành, nhà cửa, tháp canh của một tay phù thủy nào đó thì chúng cũng phải tan như sương sớm mai. Hai ông người.Saxons đứng dậy, rời khỏi bàn ăn và chạy ra cửa sổ; nhưng họ không thể thỏa mãn được sự tò mò vì tất cả cửa sổ đều nhìn xuống sân. Tiếng tù-và đó hẳn báo động một sự kiện quan trọng sắp xảy ra vì một lúc sau, trong lâu đài sự náo động rộ hẳn lên.
Khi hai ông Saxons thấy họ không thỏa mãn được trí tò mò liền quay về bàn ăn để ít nhất cố gắng thỏa mãn được cơn đói. Chúng ta hãy để họ làm cái công việc ấy để đi thăm Isaac d’York đang bị giam giữ một cách khắc nghiệt hơn.
Ông già Do Thái bị vứt xuống một cái hầm dưới đất ẩm thấp và hôi hám, sâu hơn cái hào bao quanh lâu đài. ánh sáng chỉ lọt qua một chiếc cửa sổ tầng hầm trổ trên cao cho kẻ bị giam không đu tay lên được.
Frontđe-Boeuf to lớn như lực sĩ, khỏe như vâm, cả đời đã đi qua trận mạc hay đi đánh nhà ông hàng xóm này hay nhà hàng xóm nọ. Ông ta không bao giờ lưỡng lự về những phương tiện phải dùng để vơ thêm của cải và tăng cường thế lực. Với tư tưởng như vậy, ông bước xuống hầm giam, theo sau là hai tên nô lệ da đen. Ông đi vào, cài cửa lại cẩn thận.
Sau khi đề phòng cẩn thận như vậy, ông tiến lại phía ông già Do Thái, nhìn bằng con mắt hằn học, dữ tợn. Ông phá tan sự yên lặng bằng một câu mắng nhiếc:
– Thằng chó kia, – hắn nói to mà tiếng vang trên trần nghe còn khủng khiếp hơn nữa, – mày có trông thấy cái cân kia không? Mày phải nặng đến nghìn livrơ bạc trắng tiền chuộc đấy.
– Ôi, lạy thánh Abraham! – Isaac kêu lên.
– Có ai nghĩ yêu cầu một món tiền lớn đến như vậy? Xin hiệp sĩ cao cả hãy thương kẻ già này, vừa yếu đuối, vừa nghèo túng.
– Hãy nghĩ trước tiên đến số phận dành cho mày đã. Cái hầm này không phải chỗ để nói đùa.
Những tên tù khác cao sang hơn mày đã chết trong bốn bức tường này. Nhưng số phận của chúng chỉ là một thú vui nhỏ so với những gì đang chờ đợi nhà ngươi…
Hắn ra hiệu cho hai tên nô lệ lại gần và nói bằng tiếng mẹ đẻ của chúng, thứ tiếng học được ở Palestin cũng là nơi có lẽ hắn tiếp thu được những bài học tàn ác.
– Isaac, – Frontđe-Boeuf nói, – ngươi có trông thấy những thanh sắt nung trên đống lửa rực đỏ kia không? Ta sẽ đặt ngươi lột hết quần áo lên trên cái giường êm ấm ấy…
Chính lúc đó người ta nghe thấy tiếng tù và thổi ba lần. Tên nam tước dã man không muốn bị bắt gặp khi đang làm trò tra tấn khủng khiếp đó vội chạy lên lầu, hai tên nô lệ chạy theo, bỏ mặc ông già Do Thái ở lại, ông vội cảm ơn Thượng đế đã cho mình một phút được ngơi.
Lady Rowena bị tách ra khỏi đoàn và bị dẫn đến giam ở một chái riêng lẻ của lâu đài. Rebecca cũng bị lâm vào cảnh giam giữ riêng rẽ đáng ngờ đó. Người bị thương nằm trong kiệu cũng bị khiêng đi, có hai tên tay chân của De Bracy đi theo giám sát chặt chẽ. Ở đây cần phải nói rõ thêm là trong lúc chặn đánh trong rừng, bọn cướp lúc đầu không để ý lắm đến chiếc kiệu; có lẽ chúng cũng chẳng nghĩ đến chuyện khiêng đi theo nếu De Bracy không nghĩ lady Rowena có thể ngồi trong đó. Nàng trùm một tấm khăn voan nên De Bracy khó tìm ra. Vì vậy khi hắn mở cánh rèm hắn rất ngạc nhiên thấy trong đó có một hiệp sĩ bị thương; người này tưởng mình bị những tên outlaws người Saxons bắt và nghĩ rằng nói thật tên mình ra sẽ được chúng che chở liền nói mình là Ivanhoé.
Mặc dầu có tính nhẹ dạ và đã sống một cuộc đời buông thả, nhưng De Bracy vẫn luôn giữ một vài nguyên tắc. Anh đã không đối xử thô bạo với người anh ngờ là đối thủ của mình, anh còn giữ kín chuyện không nói cho Frontđe-Boeuf haỵ Thế lại là may vì tên này đã được hoàng tử Jean cắt đất của Ivanhoé ban cho, như vậy Frontđe- Boeuf tham lam và tàn ác không ngại ngùng gì mà không khử ngay Ivanhoé, người chủ có quyền sở hữu hợp pháp ấy.
Thế là các tên giám mã của De Bracy khiêng Ivanhoé đặt riêng vào một buồng, coi anh như một người của bọn chúng bị thương.
Lady Rowena bị De Bracy quấy rầy ướm hỏi còn Rebecca cũng bị Ông dòng templier tấn công tình ái như thế. Hai nàng sắp hết sức cự tuyệt thì cũng là lúc nghe thấy tiếng tù-và rúc ba hồi..
Chương 9
De Bracy nói với ông dòng templier:
– Tôi cho rằng tiếng tù-và đã làm gián đoạn câu tình tự của anh và của tôi. Nhưng xem ra anh tiếc rẻ vì anh đến muộn hơn, điều đó chứng tỏ cuộc hội ngộ của anh được tiến hành suôn sẻ hơn của tôi.
– Vậy ra anh không được cô gái hoàng tộc saxon tiếp đón may mắn lắm sao?
– Người đẹp saxon như bị quỷ dữ ám!
– Còn người đẹp Do Thái, cô này bị cả bày ám kia!
Câu chuyện của họ vừa bị Frontđe-Boeuf chạy tới cắt ngang.
– Không biết cớ gì có tiếng tù-và đáng ghét ấy, – hắn bực tức nói. – Đây là bức thư một tên đưa thư vừa cầm đến đây xong, nếu tôi không nhầm, nó được viết bằng tiếng saxon đấy.
Hắn ngắm nghía bức thư, xoay đi tứ phía như mong làm thế thì hiểu được con chữ, sau hắn đưa cho De Bracy.
– Thư này đối với tôi cũng bí hiểm như thế, – De Bracy nói, – hắn đã nhận được đầy đủ cái phần ngu si gần như phổ cập ở các nhà quý phái trong thế kỷ. Vị linh mục riêng của gia đình tôi, – hắn nói tiếp, – đã muốn dạy tôi học viết; nhưng nhận thấy tôi chỉ vẽ đao và kiếm thay vì tập viết nên vị linh mục thôi không dạy tôi nữa.
– Đưa đây cho tôi, – Bois-Guilbert nói, -chúng tôi là tu sĩ, biết ít nhiều chữ nghĩa, luận ra may cũng hiểu chăng.
– Vậy xin ngài cứ đọc, – De Bracy nói. – Thế nào, thư nó viết gì thế?…
Bois-Guilbert đọc như sau:
– Tôi là Wamba, hề của nhà quý tộc Cedric de Saxon, và tôi là Gurth, chăn lợn của người, cùng với hiệp sĩ Noir-Fainéant, yeoman dũng cảm, Locksley và các chiến sĩ Mũ Xanh cảnh cáo ông Reginald Frontđe-Boeuf và những người cùng cánh, khi nhận được thư này phải trao trả ngay những người bị các ông bắt giữ khi họ đi trên đường của đức vua, người mà.họ vẫn chung sống hòa bình. Nhược bằng không làm như vậy các ông sẽ bị coi như là phản bội và là quân ăn cướp; chúng tôi sẽ tìm mọi cách, kể cả dùng vũ lực, đánh hoặc bao vây, để cho sự công bằng được thực hiện.
Thư này được nhà ẩn sĩ ở Coopmanhurst phụng sự thánh Dustan viết và chúng tôi ký xác nhận.
ở dưới vẽ cái đầu gà kèm theo một điều ghi thay cho chữ ký của Wamba; Gurth ký bằng hình cây thánh giá chữ thập vì hai người chẳng biết làm gì hơn.
– Anh có điên không đấy? – Frontđe-Boeuf kêu lên.
– Thề có thánh Luc chứng giám! Tôi đọc những điều ấy trong thự – Ông dòng templier trả lời.
Hai hiệp sĩ ngạc nhiên nhìn nhau, không hiểu nổi bức thự De Bracy là người đầu tiên phá lên cười. Ông thầy dòng bắt chước cười theo nhưng ý tứ hơn. Riêng Frontđe-Boeuf giữ nét mặt nghiêm trang, hắn còn tỏ ra khó chịu khi hai ông bạn vui vẻ quá đáng, không đúng lúc.
– Tôi nói thật với hai anh, chúng ta phải nghĩ nên làm gì trong lúc này hơn là cười không phải chỗ.
– Ta tập họp gia nhân lại và xông ra. – Ông templier đề nghị.
– Xông ra! Chúng ta mới có số người gọi là đủ để giữ lâu đài. Các tay súng cừ của tôi còn hầu bên hoàng tử Jean; đại đội của ông De Bracy cũng vậy. Chúng ta phải báo cho họ biết nhưng bằng cách nào? Cử người mang thư đi sẽ bị bắt ngay giữa đường.
– Viết thư trả lời cho bọn khố rách ấy, -Brian nói, – bảo chúng vì lòng thương của Chúa hãy cử đến chỗ chúng ta một vị linh mục để nhận lễ xưng tội của bọn bị bắt giữ và làm lễ phục đạo cho chúng được gần Chúa trước khi bước sang thế giới bên kia.
Khi thấy De Bracy và Frontđe-Boeuf nhìn mình ngạc nhiên không hiểu, Brian nói tiếp để trả lời:
– Thượng đế không cấm chúng ta biếu vị linh mục ấy một túi to đựng vàng và hứa sẽ cho thêm bằng thế nếu chạy nhanh đi báo tin cho người bên ta đến cứu..Tiếng tù-và cất lên lần nữa; tiếng vọng vang lên từ tháp canh đến vọng lầu, từ tường thành này sang tường thành cạnh rồi tắt lịm trên những ngọn cây mọc quanh lâu đài. Tiếng tù-và thúc giục các hiệp sĩ đến chân tường lâu đài. Những người đội mũ xanh làm nốt công việc cuối cùng của cuộc bao vây thực sự. Những người ngoài vòng pháp luật làm theo sự chỉ huy của Hiệp sĩ áo đen là người hình như nắm vững được tất cả chiến thuật ứng dụng ngày đó. Những người bắn cung, những người đốn gỗ từ khắp nơi chạy đến, có cả các gia nhân của Cedric de Saxon và của Athelstane chạy đến cứu chủ.
– Cuộc chiến đấu sẽ gay go, – Frontđe-Boeuf nói thầm, – nhưng đám quân vô lại kia làm gì nổi cái pháo đài vững chắc của ta?
Khi Hiệp sĩ áo đen nhận được thư trả lời của đối phương do người cầm thư của Wamba và Gurth mang về thì hiệp sĩ thông báo ngay cho Locksley, hai gã hề và chăn lợn và nhà ẩn sĩ biết nội dung. Ông này đương nhiên được chỉ định làm nhiệm vụ đó nhưng ông từ chối lấy cớ là mình thích nghề cầm súng hơn là làm người đi xá tội.
Chính Wamba gợi ý xin đi; gã nói:
– Xin các bạn nhớ cho rằng trước kia tôi mặc áo dài đen chứ không đội mũ hề đính chuông nhạc và tôi đã trở thành tu sĩ rồi, vì quá thông minh tôi mới phải làm kẻ rồ như hiện nay.
Mặc chiếc áo đen và đội cái mũ của nhà ẩn sĩ, buộc sợi dây thừng thay chiếc dây lưng, Wamba đi đến trước cửa lâu đài của Frontđe-Boeuf.
Gã được dẫn ngay vào phòng các hiệp sĩ trong lâu đài ngồi đợi.
Wamba gần như mất hết can đảm khi đứng trước một kẻ đáng gờm, đáng sợ như Reginald Frontđe-Boeuf; anh đọc bài kinh pax vobiscum mà anh hy vọng vai trò tu sĩ của mình sẽ được diễn đạt trôi chảy nhưng lúc này giọng anh run run không được tự nhiên như trước. Frontđe-Boeuf vẫn quen thói thấy mọi người sợ mình nên thấy Wamba lúng túng hắn không nghi ngờ gì.
Frontđe-Boeuf cho người dẫn Wamba vào phòng của Cedric và Athelstane để làm cho anh không nghi ngờ, hắn nghĩ như vậy.
Trong phòng, Wamba nói mình là ai và nhấn mạnh, để buộc Cedric phải đóng thay vai mình.
Ông chủ liền mặc cải trang, tạm biệt hai người Athelstane và Wamba.
Trước khi tiếp tục chương này, chúng tôi thấy cần phải giới thiệu một nhân vật mới nữa; nhân vật này sẽ quyết định số phận và đời sống của những người sống trong lâu đài của Reginald Frontđe-Boeuf. Muốn thế chúng ta phải trở lại nhiều năm về trước và nhớ rằng cái lâu đài nói ở đây trước kia là thuộc về Torquil Wolfganger, một nhà quý tộc Saxons cùng với hai con trai và một con gái tên là Ulrique sống ở đó. Ông có một kẻ thù không đội trời chung, đó là sire De Frontđe-Boeuf, cha của Reginald Frontđe-Boeuf nói trong chuyện này.
Gia đình Frontđe-Boeuf sống bằng bạo lực, cướp của, giết người. Một đêm nọ, nhà của Tor-quil Wolfganger bị đánh phá một cách bất ngờ.
Mặc dầu người trong lâu đài chống cự rất dũng cảm, nhưng vẫn bị thua; cả người cha và hai con trai đều bị giết trước con mắt hoảng sợ của Ulrique.
Cô con gái không bị chúng giết không phải vì thương mà vì chúng ác: cô sẽ làm nô tỳ cho Frontđe-Boeuf chạ Bị đánh đập, bị bắt làm những công việc bẩn thỉu và mệt nhọc nhất, bị tên sát hại cả gia đình cô chửi mắng, cô thề sẽ trả thù. Cô hùn cậu con trai Frontđe-Boeuf hất cẳng cha mà mãi hắn chẳng chịu chết cho… Một tối hai cha con uống rượu say, Reginald được Ulrique khuyến khích, giết cha mình… Những năm tháng qua đi. Ulrique bây giờ là một bà lão lưng còng vì làm lụng vất vả, gầy khô và bị ngược đãi, thiếu thốn.
Từ lâu, cô con gái của Torquil Wolfganger đã là một công cụ đích thực trong tay Chúa để trừng trị tội ác, rửa mọi oan trái, cô chỉ nghĩ mỗi việc làm sụp đổ đến tận gốc cái nền móng thế lực và giàu sang của gia đình Frontđe-Boeuf.
Ulrique ngồi ở đầu giường bệnh Ivanhoé, cùng lúc ấy tiếng tù-và làm Reginald cùng các tay chân thân cận và Brian lẫn De Bracy giật mình, vang lên ở cổng lâu đài.
Bà già Ulrique giật mình, đứng bật dậy.
– Có phải đã đến lúc báo thù rồi chăng? -Bà già lẩm bẩm.
Một ánh sáng khủng khiếp lóe lên trong đôi mắt bà..Cedric cố gắng đi đến cửa đường ngầm. Các tay chân của Frontđe-Boeuf đang bận làm các công việc bảo vệ lâu đài nên ông đi qua không ai thấy trừ Ulrique đang lảng vảng ở các cầu thang lâu đài. Bà nhận ra sự giả mạo, đến báo cho Cedric khi nào thấy lửa bốc cháy ở vọng lâu thì ra lệnh xung phong. Dặn xong ám hiệu đó, bà cầm tay Cedric dẫn ra khỏi lâu đài bằng một lối đi bí mật.
Còn tiếp
(Kho tư liệu của Hội NVHP)