Anh Đắc – Truyện ngắn của Ngô Xuân Tiếu

 

– Tôi định bàn với chú đây. Anh mỉm cười nhìn người yêu nói: Chúng tôi đăng ký kết hôn rồi. Định bụng chủ nhật tới làm vài mâm cơm kính cáo gia tiên, và bà cả. Mời bạn bè thân tín đến uống chén rượu mừng. Các cháu cũng vui vẻ cả rồi. Thằng cả hứa với tôi: “ Ba cứ làm hoành tráng vào, kinh phí con xin chu cấp đủ!” Nghe cháu nói vậy, tôi khóc òa như đứa trẻ lên ba…

– Tôi định bàn với chú đây. Anh mỉm cười nhìn người yêu nói: Chúng tôi đăng ký kết hôn rồi. Định bụng chủ nhật tới làm vài mâm cơm kính cáo gia tiên, và bà cả. Mời bạn bè thân tín đến uống chén rượu mừng. Các cháu cũng vui vẻ cả rồi. Thằng cả hứa với tôi: “ Ba cứ làm hoành tráng vào, kinh phí con xin chu cấp đủ!” Nghe cháu nói vậy, tôi khóc òa như đứa trẻ lên ba…

Anh Đắc năm nay tám mươi tư tuổi, nếu tính cả tuổi bà mụ là tám lăm. Tôi kém anh gần một giáp. Năm 1958 anh xuất ngũ, vào học trường y thành bác sĩ khoa ngoại, về công tác tại ty giao thông Thanh Hóa. Năm 1962 gặp anh ở công trường 217B mở con đường từ Na Mèo đi Sầm Nưa dài hơn chín mươi cây số giúp Lào, ( giờ là tỉnh Hùa Phăn.) Hai anh em ở đội 61, một trong mười đội cầu đường trên công trường. Người cùng huyện gặp nhau tay bắt mặt mừng, yêu nhau như ruột thịt.

Anh có dáng người tầm thước, gương mặt ưa nhìn, trán cao, tai to, mắt sáng, trên môi luôn nở nụ cười.Tính cách cởi mở mến khách, nói chuyện có duyên thân thiện với mọi người rất dễ gần. Lông mày rậm, nhưng không có râu. Chẳng bù cho hàm râu quai nón của tôi nếu vài ba ngày không cạo nó mọc um tùm như rừng.
Anh Đắc đọc thông, viết thạo tiếng Pháp, ham đọc sách yêu văn, thơ. Một cây bút thơ Lục bát, thơ Đường luật có hạng trong làng thơ Xứ Thanh những năm 1960 – 1965 trên báoVăn Nghệ. Đặc biệt, ngón đàn ghi ta anh chơi rất chuyên nghiệp, làm say đắm lòng người.

Khi anh ôm đàn hát bài “Làng Tôi” của nhạc sĩ Văn Cao. Tiếng đàn bập bùng, chắp cánh cho giai điệu bài ca nhịp nhàng bay bổng: (Làng tôi xanh bóng tre. Từng tiếng chuông ban chiều. Tiếng chuông nhà thờ rung. Đời đang vui đồng quê yêu dấu. Bóng câu với con thuyền một dòng sông…) Người nghe bị cuốn vào giai điệu lời ca du dương, trầm bổng; đầu lắc lư bên này, sang bên kia như người lên đồng, tay vỗ nhịp say mê hát theo lời ca, tiếng đàn ghi ta dập dìu nghe không biết chán.
Được anh chỉ bảo cách chơi đàn. Đôi khi cao hứng tôi ôm đàn bật beng như người cung bông hỳ hục cả đêm với cây đàn, mấy đầu ngón tay nhức nhối mà chẳng nên cơm cháo gì. Biết mình không có năng khiếu âm nhạc tôi bỏ đàn, tập ghi nhật ký và làm thơ.
Một hôm, tôi đưa anh Đắc xem mấy bài thơ hay nhất của mình, anh nhẩn nha đọc rồi vỗ vai tôi chân thành nói:

– “ Thơ là cảm xúc bằng nghệ thuật ngôn từ tuyệt diệu hoàn mỹ, là bức tranh biết nói, bản nhạc lắng đọng, sôi nổi gợi suy tư. Không nên kể lể hời hợt trong thơ. Muốn vậy, phải dành thời gian đọc. Sách là kho tàng trí tuệ của nhân loại, là thầy, là người bạn lớn. Thấy sách chưa đọc, mừng như gặp người bạn tốt; gặp sách đã đọc như gặp lại người bạn tâm huyết.
Với người sáng tác văn học, thiên tài có 10% năng khiếu bẩm sinh trời ban, 90% là mồ hôi nước mắt. Người ta có thể đào tạo mỗi năm hàng trăm bác sĩ, sĩ quan, nhà khoa học nhưng không thể tạo ra các nhà văn, nhà thơ ngoài tài năng thiên phú của họ. Không vật báu nào quý hơn kiến thức, hãy tích lũy nó khi bạn còn sung sức. Hãy viết bằng cảm xúc từ trái tim mình. Cậu có năng khiếu bẩm sinh, nhưng thiếu vốn sống, và sự trải nghiệm trong sáng tác. Sáng tác văn học là một nghề nặng nhọc nhất trong mọi nghề. Năng khiếu, cộng học tập, cộng lao động chăm chỉ là cội nguồn của thành công.”
– Cứ ngỡ anh khen, ai ngờ… Nhưng thấy anh chân thành chỉ bảo những khiếm khuyết, tôi biết mình còn thiếu hụt nhiều điều, thầm cảm ơn anh. Đầu năm 1966 công trường 217B giải thể. Thanh niên trai tráng chuyển sang quân đội. Tôi về đơn vị công binh, sau đó đi học ở trường sĩ quan, tốt nghiệp, nhận công tác trên mặt trận đường Trường Sơn; anh Đắc về công tác ở ty giao thông Thanh Hóa cho đến khi về hưu.

Một buổi sáng mùa thu tôi tìm đến nhà thăm anh Đắc. Đứng trước ngã ba đường, đang do dự không biết nên rẽ lối nào, thì gặp bọn trẻ chăn trâu trên ven đê sông Bưởi. Tôi xuống xe, đon đả:
– Chào các cháu. Cho ông hỏi thăm đường vào nhà bác sĩ Đắc ở làng Thọ Cường rẽ lối nào? Thằng bé chừng mười hai, mười ba tuổi nhanh nhảu nói:
– Có phải ông Đắc hay chơi ghi ta không, thưa ông? Ông rẽ tay phải đến nhà có cây vú sữa to ở đầu ngõ, trước sân có hòn non bộ, ông Đắc đang ở nhà đấy. Tôi rỡ mừng, đáp:
– Cảm ơn cháu.
– Chúc ông may mắn.

Tôi vào đến sân, nhìn qua cửa sổ thấy anh Đắc đang ngồi đọc sách, bèn thử anh có nhận ra mình không? Nhờ bộ râu quai nón, mấy hôm nay chưa cạo dài nghêu ngao, bạc trắng như hoa lau, bộ ria mép che kín miệng; cặp kính màu nước biển lấp kín mắt. Tôi mỉm cười gõ cửa “ cộc, cộc, cộc!”
– Mời vào. Anh kéo ghế mời tôi ngồi. Pha trà xong anh rót nước, nói:
– Mời ông uống nước. Anh nhìn lướt qua vị khách khó đoán tuổi ngồi đối diện với mình, nghĩ có lẽ ông này đến khám bệnh. Không phải. Dáng người tầm thước, nước da đỏ au, mắt sáng, bộ râu nom thật đẹp lão.
Tôi bình tĩnh thử nghiệm cách hóa trang thay hình đổi dạng của mình, thư thái uống trà, thích thú ngắm ông chủ nhà. Mừng anh vẫn phong độ như xưa, mười năm nhiều biến cố một đời người trôi qua. Ngoài tám mươi tuổi mà nước da, ánh mắt, tiếng nói âm vang thế này mấy người có được. Thấy khách không có nhu cầu khám, chữa bệnh anh Đắc lên tiếng:

-Tôi có thể giúp ông bạn việc gỉ? Biết anh Đắc không nhận ra mình, tôi mỉm cười nói:
– Em đến nhờ bác đọc mấy bài thơ xem có khá hơn trước được chút nào không.
– Thơ ?… Tôi đã đọc thơ ông lần nào đâu ?
– Thế là ông anh quên em đấy. Tôi gỡ kính ra, kéo vạt áo lên để lộ vết sẹo to tướng ở ổ bụng – vết thương do anh Đắc mổ, khi tôi bị thương trong trận bom Mỹ, ở cầu suối Sim trên đất Lào. Khi tỉnh lại cô y tá kể: “Khi gắp mảnh bom trong ổ bụng tôi ra, anh Đắc ngất lịm, vì suốt ngày hôm đó liên tục đứng bên bàn mổ, tiếp máu cho tôi. Khi khâu vết mổ do quá mệt bỏ quên băng gặc trong ổ bụng, hôm sau phải mổ lại. Vết mổ bị nhiễm trùng nên vết sẹo nổi cộm loằng ngoằng như rắn lượn trên bụng, anh Đắc ân hận mãi.” Tôi hỏi:

– Anh đã nhận ra vết sẹo ở bụng em chưa ?
– Trời ơi, chú Văn mà tôi không nhận được, đúng vết mổ lại bị nhiễm trùng đây! Chú mày hóa trang lừa anh hử ? Hai anh em ôm nhau mừng mừng, tủi tủi nước mắt lưng tròng ướt nhèo mắt kính.
– Thôi, chú tắm rửa đi cho mát, anh ra quán làm mấy món nhắm ta lai rai hàn huyên, cũng đến bữa trưa rồi. Tôi vào nhà tắm cạo râu, tắm rửa xong cùng anh Đắc dọn mâm cơm. Anh hóm hỉnh đọc mấy câu thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ-Nguyễn Khuyến: “ Chẳng mấy khi khách đến chơi nhà. Vợ con đi vẳng, chợ thì xa. Ao sâu nước cả khôn chài lưới. Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.” Hai anh em thưởng thức thơ, vui cười thi vị…

Một bình rượu thuốc anh Đắc mang ra, cho biết:
– Đây là toa thuốc bổ đặc biệt dùng trong thâm cung Nhà Thanh do ngự y Tô Ngự Đường người Vũ HánTrung Quốc dâng vua. Mấy lon bia Hà Nội, món thịt chó nấu nhựa mận, một đĩa lòng, vài xiên chả thơm lừng, chấm mắm tôm chanh, ớt; đĩa bún, bánh đa vừng, rau thơm, hành sống, chuối xanh thái lát bầy trên bàn tươm tất, anh Đắc rót rượu, nâng cốc:
– Nào, anh em ta chạm cốc mừng hội ngộ. 100% nhé. Tôi băn khoăn:
– Để mời chị và các cháu lên ăn cho vui. Đặt cốc rượu xuống mâm, giọng anh trầm hẳn xuống, mắt ngấn lệ:
– Bà xã nhà tôi ung thư vòm họng mất mấy năm nay rồi. Hai cháu, đứa con trai ở trong Nam, cô út ngoài Bắc. Chúng nó có gia đình riêng, con cháu đề huề, kinh doanh thành đạt cả…
Bất chợt tôi nhìn lên bàn thờ, di ảnh người đàn bà chừng sáu mươi tuổi rất đoan trang, miệng mỉm cười, đôi mắt phảng phất nét buồn xa xăm tỏa lan trong hương khó. Thì ra anh Đắc vừa thắp hương cho vợ. Tôi lại bàn thờ thắp hương cho người quá cố, chia sẻ nỗi buồn đứt gánh cùng anh.

Lòng nặng trĩu, hai anh em chạm cốc. Vui, buồn lẫn lộn. Vui vì đã lâu chúng tôi mới gặp nhau, sau cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt ác liệt kéo dài hơn hai mươi năm. Buồn vì anh Đắc lâu nay sống cô đơn, cơm niêu nước lọ khi tuổi cao. May sao anh vẫn còn khỏe mạnh, lạc quan yêu đời. Sau vài lần chạm cốc, thưởng thức loại rượu hảo hạng của vua nhà Thanh, với món thịt cầy đặc sản thơm ngon, men rượu lâng lâng tôi lựa lời:
– Sao anh không ở với con, cháu cho vui cửa vui nhà ? Uống ngụm rượu, anh thở dài kể:
– Các cháu, và bạn bè cũng khuyên tôi như vậy. Nhưng mười năm rồi chưa chọn được phương án tối ưu. Tôi đến ở với chúng một thời gian rồi lại phải về nhà mình. Không phải con thiếu trách nhiệm với bậc sinh thành; trái lại các cháu đối xử với bố rất tốt. Nhưng…chú nghĩ xem, ở thành phố mình chẳng quen ai, con cháu đi làm, đi học từ sáng đến tối, mình ngồi ru rú trong nhà nghe đài, đọc báo, xem ti vi… Ăn no ngủ kỹ hệt con chim cảnh nhốt lồng. Nhiều hôm tôi chơi bài chắn một mình, buồn lắm. Ở tuổi mình nhu cầu giao lưu trò chuyện với bạn bè, nhất là người cùng sở thích quý hóa lắm. Khi viết xong bài thơ tâm đắc, hoặc ôm đàn chơi một ca khúc ưa thích không biết chia sẻ cùng ai, chán lắm chú ơi. Mấy đứa con không hiểu bố cần gì, chúng cho tôi là “ khó tính” như “cụ Khốt”… khổ thế đấy.

Mỗi khi tôi đòi ra Bắc, chúng nói: “ Các con đối xử với ba có điều gì không phải ba cứ dạy. Ba một mực đòi về chúng con biết làm sao đây. Ở ngoài Bắc có cô út, nhưng còn bố mẹ chồng cô ấy nữa. Làm sao chúng con nỡ để bố sống một mình ở quê nhà. Bố thương con cháu, hãy ở lại đây với chúng con!
Con khóc, bố khóc… nghĩ thương nhớ bà vợ xấu số vô cùng. Mấy chục năm kháng chiến, một mình bà nuôi mẹ, nuôi con, gạo đùm vạt áo, cà túm lá khoai thắt lưng buộc bụng nuôi con ăn học thành người. Đến khi an nhàn, có bát ăn bát để, vợ chồng bên nhau bà ấy bỏ tôi giữa đường, giữa chợ thế này. Mỗi khi đạp xe đi chợ mua ăn, nhất là khi trời mưa gió, hoặc nhà có khách vất vả tủi thân lắm. Nhớ vợ khôn cầm nước mắt…
Thấy con chân tình, tôi nguôi ngoai bức xúc cố lưu lại, nhưng chỉ được mươi ngày, nửa tháng nỗi nhở quê hương, nhớ bạn lại hối thúc tôi về…
Nào, ta cạn ly. Hôm nay anh em mình phải uống thật say, rốc cạn bầu tâm sự cho bõ những ngày xa người bạn vong niên tri kỷ.

– Sao anh không mượn người giúp việc, lúc trái gió trở trời đêm hôm mưa gió con cháu ở xa, lỡ xảy ra chuyện gì thì khổ? Không chủ quan được! Thời buổi này, hoàn cảnh như anh nếu có thể kiếm một bà nâng khăn sửa túi cũng tốt. Các cụ dạy “ Con nuôi cha không bằng bà chăm ông.” Ở làng em, ông Mùi cũng trạc tuổi anh, năm ngoái cưới bà Ngọ mới ngoài năm mươi tuổi, hai người quấn quýt bên nhau như đôi sam, hạnh phúc lắm. Ông Đắc thở dài phân trần:
– Mình cũng muốn thế, nhưng sợ dân làng cười: “ Mấp mé miệng lỗ còn ham chơi trống bỏi”. Rồi thì con cái không đồng tình, chúng nó sợ khi mình qua đời nhà đất về tay vợ kế, thôi thì đủ chuyện nhiêu khê… Người vun vào ít, kẻ cào ra thì nhiều. Cảnh già đứt gánh giữa đường, vắng người đàn bà thất nội trợ như tôi khổ lắm chú Văn ơi.

– Anh có vi phạm pháp luật đâu mà ngại. Còn đất đai, nhà cửa không nghĩa lí gì, khi chết có mang theo nhà, đất được đâu? Sách dẫn “Nhất điền thiên vạn chủ”. Việc khen, chê cũng năm bảy đường. Vì, cùng một sự việc tùy thuộc vào cách xem xét của mỗi người. Người khen, kẻ chê do khả năng phân tích của họ, cũng dễ hiểu thôi. Không nằm trong chăn sao biết chăn có rận. Không ai hiểu mình bằng mình. Anh phải chọn một trong hai khả năng có thể: Một là nhờ người giúp việc. Hai là cưới vợ thôi. Không nên do dự, đời người ngắn lắm anh ơi. Nhấp một ngụm rượu, sau tiếng… khà sảng khoái, anh gật đầu vẻ đồng cảm với tôi nhẩn nha cởi tấm lòng bức xúc lâu nay:

– Số đông bạn thân tín cũng khuyên tôi như vậy. Năm ngoái, cô Bình tìm cho một người giúp việc ở bên kia sông Bưởi – cô Ban năm mươi lăm tuổi, lúc thiếu niên bị bọn côn đồ cưỡng hiếp, Ban sống độc thân. Dáng người cân đối, gương mặt dễ coi, siêng năng chăm chỉ thạo chợ búa, biết nấu ăn và chăm sóc người già, anh mừng lắm. Để giữ chân người giúp việc mình may quần áo thời trang, mua xe đạp cho cô ấy đi chợ, thi thoảng về thăm nhà khỏi phải đi bộ. Rồi nhẫn, dây chuyền, điện thoại di động… cô ấy vui lắm. Chúng tôi sống với nhau như vợ chồng. Đi thăm danh thắng, bạn bè gần xa thật hạnh phúc…
Một hôm, cô ấy mát sa, xoa bóp cho tôi rồi âu yếm nói: “ Để dân làng khỏi lời ra tiếng vào, ta đăng ký kết hôn thôi, anh yêu!” Tôi hôn em, âu yếm nói “ Ô Kê!”

Hôm sau tôi đưa việc này tranh thủ ý kiến các cháu trong gia đình, bị chúng phản bác gay gắt, nhiều lý lẽ ngụy biện tựu trung vẫn sợ nhà, đất vào tay người khác. Cô Ban bị xúc phạm, lấy cớ đòi tăng lương lên ba, bốn triệu mỗi tháng, rồi chia tay nhau.
Tôi buồn chán đến mấy tuần lễ. Thấy tôi bất ổn về tinh thần, thằng cả quyết định đưa bố vào miền Nam, để chăm sóc ba những năm cuối đời thật chu đáo. Cháu làm đúng như vậy, đời sống vật chất tôi chẳng thiếu gì. Nhưng về ký ức một thời thì trống rỗng. Trộm nghĩ số phận đã an bài, không cưỡng nổi mệnh trời mình phải sống ở đây như con chim lồng đến hết đời thôi…anh Đắc thở dài não nuột.
Tôi thấy tâm trạng anh nặng nề bèn chuyển nội dung câu chuyện sang hướng khác:

– Em biếu anh tập truyện ngắn “ CƠN MƯA BẤT CHỢT.” Bác đọc kỹ rồi nhận xét thẳng thừng vào cho em. Cuốn sách có những số phận na ná như hoàn cảnh của anh, xem cách họ ứng xử thế nào khi gặp trường hợp trớ trêu vào thời buổi này.
– Hay đấy, cảm ơn em. Anh sẽ đọc kỹ rồi mình đàm đạo sau. Anh Đắc cầm cuốn sách trân trọng: “ Sách in đẹp quá, khá dầy dặn đến 350 trang, với khổ in (14,5 x 20,5cm) có lời giới thiệu của nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam nữa. Chúc mừng em!”
Chia tay anh Đắc, trên đường về nhà tôi cho xe đi chậm lại ngắm cảnh vật bên đường một vùng quê đang xây dựng nông thôn mới, nhà cửa khu dân cư mọc san sát nhiều kiểu dáng đẹp. Đường làng trải bê tông, công sở, trường học, trạm xá, phố, chợ, nhà văn hóa đa năng ở xã, phòng đọc sách, nhà văn hóa làng xây dựng khang trang.

Tôi hỏi mình: Trong những căn hộ sang trọng kia có ai sống cô đơn như anh Đắc không? Như thế nào là tổ ấm gia đình hạnh phúc? Con ngăn cha, mẹ đi bước nữa đúng hay sai? Những vấn đề tưởng dễ trả lời, nhưng sự thật không phải thế. Đang suy nghĩ miên man, chiếc xe như ngựa quen đường cũ đưa tôi vào ngõ nhà mình lúc nào không biết.
Công việc hằng ngày cuốn hút tôi quên cả thời gian. Chia tay anh Đắc mấy tháng nay tôi dồn sức viết cho xong cuốn tiểu thuyết “CHUYỆN TÌNH TRONG NGÔI NHÀ CỔ.” Bỗng nhận được cú điện thoại của anh Đắc cho biết đã hồi hương vài hôm nay, mời tôi lên chơi.

Xếp mọi việc lại. Sáng hôm sau đi thăm anh Đắc. Đến ngõ tôi bấm chuông, anh cùng hai người đàn bà môi son má phấn ra ngõ vui mừng đón khách. Vào đến nhà, anh Đắc vui vẻ nói:
-Xin giới thiệu với chú Văn, đây là cô Bình – người giới thiệu, và thay cô Ban chăm sóc anh mấy hôm nay. Hai người đàn bà mỉm cười chào khách. Tôi nói vui:
– Anh mới về vài hôm mà tìm được hai người giúp việc sao? Đúng là lắm mối tối nằm không. Anh Đắc cười xí xóa:
– Ta thưởng thức cà fe nguyên chất đã, thơm ngon lắm chú ạ, chuyện nhà tôi sẽ kể sau. Nếm náp vị cà fe thơm ngon, anh mỉm cười chậm rãi kể:
– Tôi quyết định về quê, sống nốt những năm cuối đời theo cách của mình. Các cháu đành phải chấp nhận, chúng lấy vé máy bay, hộ tống tôi về đến sân bay Nội Bài, tôi cho chúng quay lại. Vì trước đó vài hôm tôi gọi điện cho cô Bình nói rõ mục đích chuyến hồi hương này: “ Nếu em chấp nhận anh sẽ về sống bên em những năm cuối đời.” Bình trả lời:

-“ Nếu anh về em sẽ chăm sóc anh đến hết đời, anh trả lương tháng bao nhiêu cũng được.” Như người khát trên sa mạc gặp suối nước ngọt trong lành, tôi yên tâm bay ra Bắc. Suống sân bay Nội Bài, lên xe Tát xi về nhà con gái ở thị trấn huyện mình, tôi không sao cầm nỗi nước mắt. Ôi quê hương bản quán đây rồi. Những năm cuối đời ta sống và chết trên đất này. Bỗng điện thoại trong túi áo đổ chuông, tôi bấm máy, tên em Bình hiện trên giao diện. Một giọng đàn bà quen thuộc như rót mật vào tai:
– A lô, anh đang ở đâu, để em đón?
– Anh đang ở nhà con gái. Khu phố một, số nhà em biết rồi. Ba mươi phút sau, Bình đến đón tôi về mái nhà xưa cửa đóng then cài hai năm sân rêu, nhà mốc. Nhờ bàn tay nội trợ của người đàn bà sân nhà, bếp núc, nơi ăn chỗ ngủ sạch sẽ, trong nhà ra ngõ sáng bừng lên một tổ ấm gia đình. Anh Đắc nhấp ngụm cà fe vỗ vai cô Bình kể tiếp:

– Cô Bình bằng tuổi cô Ban, hai người bạn thân. Ban sống độc thân, Bình góa bụa, nuôi đứa con gái chừng mười ba, mười bốn tuổi. Được tin Bình đón tôi về nhà, Ban đến chơi. Mấy hôm Bình về quê làm giỗ chồng, nhờ Ban chăm sóc tôi. Anh vỗ vai Cô Ban cười mãn nguyện… kể: Khi chia tay tôi, Ban giúp việc cho ông giáo ở Hải Phòng, lương tháng ba triệu rưỡi, sống với nhau như vợ chồng. Họ chuẩn bị đăng ký kết hôn, bị con ông giáo gây chuyện xúc phạm đánh đuổi. Hai người chuyển chỗ ở vào Thanh Hóa. Được một thời gian ông giáo bị đột quỵ qua đời, số phận con người thật trớ trêu.

Ông già ngoài tám mươi tuổi ngồi giữa hai người đàn bà trẻ giúp việc, kể chuyện riêng tư về họ rất thoải mái. Cả ba người cùng cười vui… Tôi chưa lý giải được vì sao lại có cảnh này. Như hiểu ý khách, cô Bình xởi lởi:- Em đến với anh Đắc vì yêu anh! Yêu thơ và tiếng đàn ghi ta của anh. Lời thơ, tiếng đàn ám ảnh em mất ăn mất ngủ, nhất là thời gian anh ở trong Nam. Cô Bình đưa tôi xem một cuốn sổ tay ghi những bài thơ tình hai người gửi cho nhau nói: “ Em ghi lại tất cả những bài thơ tình, và Vidieo những bài tình ca có tiếng đàn ghi ta của anh Đắc gửi cho em, để cho con cháu đọc hiểu thêm về cha mẹ mình.”
Tôi hỏi anh Đắc:

– Để hợp pháp mối tình này anh tính sao?
– Tôi định bàn với chú đây. Anh mỉm cười nhìn người yêu nói: Chúng tôi đăng ký kết hôn rồi. Định bụng chủ nhật tới làm vài mâm cơm kính cáo gia tiên, và bà cả. Mời bạn bè thân tín đến uống chén rượu mừng. Các cháu cũng vui vẻ cả rồi. Thằng cả hứa với tôi: “ Ba cứ làm hoành tráng vào, kinh phí con xin chu cấp đủ!” Nghe cháu nói vậy, tôi khóc òa như đứa trẻ lên ba…

– Tôi ngẫu hứng đọc tặng anh Đắc mấy câu thơ:
Tám mươi lăm tuổi thơ chửa già
Đa tình, đa cảm nhất anh ta…
Tiếng đàn đốt lòng em ghê quá
Cửa sổ tâm hồn vẫn thăng hoa.
Hai anh em tôi ôm nhau cười ra nước mắt ./.

Mùa thu 2016.

N.X.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder