Bí mật rừng chiến địa – Phạm Quang Đẩu


Từ sau năm 1945 đến nay, nền văn chương nước nhà luôn được tô đậm bởi một đội hình nhà văn – chiến sĩ trưởng thành từ trong khói lửa của cách mạng và chiến tranh. Nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị làm nên bản sắc văn chương nước nhà, mới đây Hội Nhà văn Việt Nam cho xuất bản Tuyển tập văn xuôi và Tuyển tập thơ thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.

Kỳ này vanhaiphong.com xin được giới thiệu cùng bạn đọc truyện ngắn “Bí mật rừng chiến địa” của nhà văn Phạm Quang Đẩu in trong Tuyển tập văn xuôi thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.

Từ sau năm 1945 đến nay, nền văn chương nước nhà luôn được tô đậm bởi một đội hình nhà văn – chiến sĩ trưởng thành từ trong khói lửa của cách mạng và chiến tranh. Nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị làm nên bản sắc văn chương nước nhà, mới đây Hội Nhà văn Việt Nam cho xuất bản Tuyển tập văn xuôi và Tuyển tập thơ thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.

Kỳ này vanhaiphong.com xin được giới thiệu cùng bạn đọc truyện ngắn “Bí mật rừng chiến địa” của nhà văn Phạm Quang Đẩu in trong Tuyển tập văn xuôi thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.

Nhà văn Phạm Quang Đẩu

HỌ VÀ TÊN KHAI SINH: PHẠM QUANG ĐẨU. SINH NGÀY 15 THÁNG 8 NĂM 1948. QUÊ QUÁN: ĐẠI THẮNG, VỤ BẢN, NAM ĐỊNH. DÂN TỘC: KINH. HIỆN THƯỜNG TRÚ TẠI: 328 BÙI XƯƠNG TRẠCH, THANH XUÂN, HÀ NỘI. NĂM 1970 TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC, KỸ SƯ CƠ KHÍ VIỆN CÔNG NGHIỆP RỪNG, TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP. 9-1972 NHẬP NGŨ THUỘC E1, QUÂN KHU HỮU NGẠN, 3-1973 ĐẾN 8-1979: TỔNG CỤC HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM. TỪ 1979 ĐẾN 2008: LÀM VIỆC TẠI TOÀ SOẠN BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, TRƯỚC KHI NGHỈ HƯU QUÂN HÀM ĐẠI TÁ.

 

 

BÍ MẬT RỪNG CHIẾN ĐỊA

Khói. Mở mắt, bảng lảng một làn khói và sự nức mùi gì khó chịu mà trong cuộc đời sáu mươi năm sống lão đã có đôi lần gặp. Phải rồi, mùi của bệnh viện; mùi của phòng mổ! Còn, cái gì đỏ đậm bồng bềnh trên màn khói, như một cục máu tươi kia? Lão chỉ thấy ớn lạnh dọc sống lưng.

Bỗng lão nghe mơ hồ tiếng ai gọi, xa lại gần, như từ thế giới bên kia vọng lại. Vài giây sau lão mới nghe tiếng người bên tai mình:

– Ông Đàm Trấn Lôi! Tôi là công an. Ông phải trả lời cho đúng các câu tôi hỏi…

Lão chớp mắt, khẽ hít vào một hơi, cố dãn bộ ngực xẹp lép để lấy lại tỉnh táo. Màn khói tan dần. Mọi thứ đồ vật trong phòng hiện ra. Ngọn đèn đỏ quạch. Quạt trần lắc lư chậm rãi và cái tủ nhiều ngăn đặt giữa nhà bằng đuya-ra sáng choang. Duy cái mùi bệnh viện cứ xộc vào hai lỗ mũi trống huyếch của lão, muốn ói mà không ói được. Định cựa, chân bỗng vướng, có một sợi dây nhựa từ chân lão nối tới cái lọ màu đỏ treo ngược trên giá sắt. Giờ lão đã hiểu: đang được truyền máu.

Đứng cạnh anh công an còn có hai người mặc quân phục, choàng áo blu để lộ ve áo quân hàm thiếu tá và thiếu úy. Viên thiếu úy trẻ măng, tay trái bị băng trắng toát, lão nhận ra ngay, là cái cậu bộ đội trong đoàn thiếu nhi đi bốc mộ chiều qua. Viên thiếu tá lạ hoắc, lão mới gặp lần đầu. Người công an ngồi ghế sát bên lão, cuốn sổ để đầu gối. Anh ta chỉ vào cậu thiếu úy nói với lão:

-Anh Kha đây đã cứu ông. Lúc thằng Mũi To đập vào ót, ông xỉu, may có anh ấy vừa tới kịp. Mũi To hoảng bắn bừa để thoát thân, anh bị đạn sượt cánh tay, vẫn vác được ông ra đường đấy.

Lão như bị điện giật, co rúm, rên rỉ:

– Ôi, thằng Mũi To! Thằng Bốp!

– Phải rồi – Tiếng nhà chức trách – chỉ nội trong hôm nay chúng tôi sẽ tóm được thằng Mũi To. Ông đã rõ sự việc rồi đấy, giờ phải khai báo cho thành khẩn.

Viên thiếu tá quay sang viên thiếu úy bảo:

– Kha này. Nếu em không bỗng dưng muốn được đi dạo trong rừng dưới ánh trăng, thì có lẽ sự việc đào trộm hài cốt lính Mỹ đã diễn biến theo chiều khác hẳn rồi đấy nhỉ.

-Buổi chiều đưa hài cốt cha em trở về- Viên thiếu úy nói- em thấy buồn quá, muốn quay trở lại gốc chò để nhìn lại lần nữa nơi cha ngã xuống. Sau khi quanh quẩn ở chỗ mộ vừa bốc, bỗng nghe có tiếng động gần đấy, em chạy tới, không ngờ đúng lúc bọn chúng đang thanh toán nhau…

Viên thiếu tá tiếp lời:

– Bài báo của anh về bí mật khu rừng chiến địa đã có thêm những tình tiết mới. Sắp tới trên đường ra Bắc, anh sẽ tạt về thăm quê Kha, kể lại với người có trách nhiệm của cơ quan quân sự tỉnh về trường hợp hy sinh của cha em, để sớm phục hồi danh dự cùng quyền lợi liệt sĩ cho gia đình em.

– Chú Huỳnh cũng đã có bản tường trình,- Kha nói- có đóng dấu của đơn vị chứng thực chú và cha em từng tham gia chiến dịch Gian-xơn Xi-ti năm 1967. Nay có thêm bài báo của anh thì càng làm rõ sự việc. Còn chuyện có bia mộ ở nghĩa trang quân đội Sài Gòn mang họ tên cha em vẫn chưa được rõ.

– Khả năng lớn nhất là kẻ nằm dưới mồ là tên phản bội đốn mạt, đã thủ được giấy tờ của cha em trước khi chạy sang hàng ngũ địch, rồi sau đó vì một lý do gì đó hắn bị chết mà lúc xuống mồ vẫn đội cái tên của cha em… Đàm Trấn Lôi nằm nghe chuyện của hai người, bỗng lão nghển lên hỏi nhà chức trách:

– Thưa. Thế còn bộ hài cốt phi công Bốp Rô-bin-sơn thì xử thế nào?

– Ông không phải lo – Người công an trả lời – Rồi đây tỉ phú Pi-tơ sẽ nhận được nắm xương khô đích thực của thằng con nhiều tham vọng của lão. Đó là việc của hai quốc gia. Việc của ông giờ là phải nhớ lại, khai cho đúng. Hiểu chưa?

– Dạ hiểu.

*

Đàm Trấn Lôi lọt được vào khu rừng chóng vánh đến không ngờ. Suốt từ thành phố Hồ Chí Minh ra đây, hễ nhác thấy bóng cảnh sát là tóc gáy lão lại dựng ngược.

“…Chỉ có ba mới thực hiện được công vụ này. Một ông già lụ khụ ngồi nhà lâu cuồng cẳng muốn đi đây đó cho khuây khỏa, công an Việt Cộng sẽ chẳng cần lưu tâm. Vả lại thời gian qua ba được tiếng là cải huấn tốt”. Thư của thằng con trai tinh khôn của lão hiện đang ở bên kia bờ đại dương viết thế.

Trước mặt lão là khu rừng nhiệt đới rậm rì. Khó có thể hình dung gần chục năm về trước bom đạn đã trút xuống đây khủng khiếp. Ngày đó tướng Oét-mô-len tư lệnh quân viễn chinh Mỹ định quăng mẻ lưới lớn mang tên “Gian-sơn Xi-ti” định chụp đầu não của Việt Cộng. Những ngày đó lão đang là giám thị tại khám lớn Sài Gòn cũng sốt ruột sốt gan vì thằng con độc, đang chỉ huy một tiểu đoàn thám báo ngụy Sài Gòn tham chiến bên cạnh quân Mỹ. Do phước đức nhà lão lớn, bao nhiêu đứa không bỏ mạng thì cũng đui què mẻ sứt, thằng con lão vẫn nguyên lành trở về, còn được gắn thêm mề-đay. Trời đất, ma xui quỷ khiến thế nào mà nó lại là người được tự tay chôn cậu ấm Bốp Rô-bin-sơn ngay tại khu rừng này thế không biết!

Thư của Đàm Quan Lộc:

“Los Angeles ngày tháng năm 1976.

Gởi ba Đàm Trấn Lôi… Thay vì bưu kiện, lần này con có thơ theo một đường dây đặc biệt, vì một công vụ đặc biệt. Do tình cờ con được làm quen với ông vua thép, tỷ phú Pete Robinxon. Ngài có con trai, thiếu tá không quân Bob Robinxon đã bị tử nạn trong công vụ yểm trợ cuộc hành quân Jinction City ở rừng Tây Ninh. Ngày ấy tiểu đoàn con đang lùng sục trong một trảng rừng thì đúng lúc chiếc F4H vận xui của Bob rớt. Sự việc mai táng Bob được ghi lại trong một tập nhật ký của con, mà đáng lẽ sau đó con phải trình cho tòa đại sứ Hoa Kỳ biết sự việc để kiếm hài cốt thiếu tá hồi hương. Sự sơ xuất đó trở thành vận hên hôm nay. Ngài Pete Robinxon đã khoản nài con cho biết nơi chôn cất để nhờ cậy chính phủ đưa hài cốt Bob về. Dẫu rằng ngài hứa sẽ trả giá đích đáng cho sự mách bảo của con. Song con khờ gì tiết lộ một bí mật quan trọng cho một tỷ phú để đổi lấy số dolla ít ỏi chớ. Con đã bảo với ngài rằng: đừng có ảo tưởng ở mối bang giao giữa hai quốc gia có mối thù truyền kiếp như Hoa Kỳ và Việt Nam cộng sản. Ngoài con, không ai có thể tìm thấy hài cốt của thiếu tá dưới khu rừng nhiệt đới bạt ngàn đó. Giải pháp thật hữu hiệu, chóng vánh. Thông qua đường dây bí mật của con, sẽ trao tận tay bộ hài cốt đích thực của thiếu tá Bob cho ngài Pete. Và khi đã giám định gene hài cốt chắc chắn rồi mới tiền trao cháo múc. Tỷ phú Pete đã đồng ý, ngã giá.

Ba xuống ngay Tây Ninh, theo chỉ dẫn đã vẽ trong cuốn nhật ký (số 5) của con mà ba đã cất kỹ ở nhà. Xem xong phải nhập tâm rồi đốt ngay tờ nhật ký có sơ đồ đó đi. Sau khi đã có bộ hài cốt, ba thơ sang cho con theo đường bưu chánh hợp pháp, chỉ cần nói là “Ba vẫn khỏe, song còn hay bị nhức đầu. Hãy gửi đặc dược cho ba”. Sẽ có một người tới tìm ba, không phải ai khác mà chính là thằng DL Đầu Bò cháu ba, thì hãy trao “quà” cho nó.

Sẽ có một khoản tiền mà chưa bao giờ ba dám mơ tới. Chúng con sẽ phụng dưỡng ba một cách hoàn hảo hơn nhiều những thứ vặt vãnh đã gửi về vừa qua. Và chính ba đã mang lại lợi lộc cho con cháu ruột thịt của ba bên này. Ơn chúa, dòng họ Đàm ta đang vượng phát.”

Suốt đêm qua lão Đàm Trấn Lôi trằn trọc không ngủ. Cái mộng đi buôn để thành triệu phú thời trai trẻ bỗng trở lại, phát động bộ máy rệu rã của cơ thể lão. Chỉ tức thằng con ranh ma không nói rõ ngài Pi-tơ đã ngã giá cụ thể bao nhiêu. Lão phỏng đoán những con số: 10000? Không! 20000? Cũng không! 100000?… Hắn là tỷ phú, mà đây là đứa con cưng mà. Chốt lại: 1000000. Một triệu Đô-la! Đúng như thằng nhãi tinh khôn của lão đã viết. không thể tưởng tượng nổi! Mãi đến gần sáng lão mới thiếp đi. Bỗng thấy tối tăm mặt mũi vì từ trên trời tới tấp quật vào mặt lão những tệp Đô-la mới cứng. Đau điếng. Hộc cả máu mồm, máu mũi. Lão rên rỉ, xin đừng ném tiền xuống nữa, thì nghe tiếng cười khùng khục, cái lão Pi-tơ ma quái đội mũ rộng vành, mặc quần bò, đeo khẩu côn, nghễu nghện trên môi điếu xì gà, tiếng gã vọng xuống như sấm rền: Chưa hết đâu, triệu Đô-la cơ mà! Ha! Ha! Ha!

Lão bừng tỉnh, sờ lên mặt thấy khô ráp, nhăn nheo. Lão không sao ngủ tiếp được nữa.

Thư của Quan Lộc: “…Gần mười năm qua, trí nhớ con còn rất tốt. Song con không thể vẽ ngay sơ đồ vào thư này. Ba phải lục trong nhật ký…Việc nhà tỷ phú như Pete bằng bất cứ giá nào muốn tìm lại hài cốt của con trai, cả thành phố ai cũng biết. Ba ạ, con nhắc lại, phải rất cẩn trọng khi thực thi công vụ…”

Lão tự trấn an: sinh dữ tử lành, trước khi hành sự gặp giấc mơ quái gở là điềm hên. Sáng. Lão đến ngay một thầy quen được tiếng là cao tay, xin một quẻ. Thầy bói phán: Việc đại sự tiền trở hậu thành. Hên rồi!

Lão lần theo con đường mòn đi sâu vào rừng. Được một đoạn, lão ngửng lên, suýt reo to khi thấy cái tán tròn trịa, nổi bật trên nền trời phía Tây nam của một cây chò cổ thụ.

Nhật ký của đại úy Đàm Quan Lộc (quyển 5):

“Ngày 15-4-1967. Trước mặt chúng tôi là một cây cổ thụ thẳng tưng, vài chục mét. Tôi bảo 6 thằng lính nắm tay nhau vòng quanh gốc vẫn còn dư ra một khoảng. Một hạ sĩ vốn có nghề thợ mộc bảo: Đại úy. Đây là chò chỉ, gỗ mầu nâu, thẳng thớ, đóng tầu thuyền thì tuyệt vời. Đang mải ngắm cái cây chò độc nhất vô nhị ấy thì có báo cáo: Đại đội 5 tiền duyên đã phát hiện chính xác mấy ổ súng phòng không của Cộng quân phục ở trảng rừng phía trước. Tôi liền gào vào bộ đàm, báo tọa độ cho pháo dập ngay lập tức. Chỉ ít phút sau đó, bất ngờ một chiếc Phantom của không lực Hoa Kỳ khinh suất bay tầm thấp ngang qua chính khu vực nguy hiểm đó, ăn trọn một băng liên thanh 12,7 ly vào sườn. Chiếc Phantom bùng như một bó đuốc lớn, rớt tại chỗ, phi công không kịp nhảy dù. Tôi khoát tay hô lính chạy theo, cách chỗ cây trò chỉ không xa, một vạt rừng bị thiêu rụi, “Con ma” đã cày trên mặt đất một hố lớn. Phi công bị cháy đen thui, vậy mà một mảng tóc vàng hoe không hiểu sao lại còn nguyên dính vào bên cánh máy bay mà ngẫu nhiên bám vào chạc cây to gần đấy. Dẫu bị cháy mà thi thể phi công còn khá nguyên vẹn, tôi bảo mấy thằng lính tìm cách kéo anh ta ra khỏi ca bin. Lục tìm trong túi áo bay còn chưa cháy hết, có cái thẻ: “Thiếu tá Bob Robinxon sinh 7-2-1940 tại Los Angeles.” Có tiếng trọng pháo nổ uỳnh uỳnh ở khu vực xung quanh, đồ rằng Cộng quân tập kích, tôi liền lệnh triển khai đội hình nghênh chiến. Trước khi di chuyển, tôi cho bọc thi hài thiếu tá Bob trong một tấm nilon, lấy cây chò làm chuẩn, về hướng Đông ba mươi bước, quẹo trái ba bước, cạnh một hòn đá phần nhô lên mặt đất tròn như đầu sư, đào vội cái hố vùi xác Bob vào đó. Có lẽ đây là người lính Mỹ cuối cùng tử trận trong cuộc hành quân Junction City, ngay buổi trưa chúng tôi được lệnh rút.”

Trời đã ngả về chiều. Lão đeo túi dết trong đó có cái xẻng công binh cùng ít lương khô. Cây gậy trong tay lão lập cập. Lão nhìn đồng hồ: vẫn duýt lịch trình. Ánh nắng đọng lại trên chót tán cây cổ thụ làm ánh lên một đường viền lung linh lạ thường. Đời lão có lần này được ngắm trời đất, cây cỏ. Bao năm qua lầm lũi làm, chúi đầu trong khoảng tranh tối tránh sáng của nhà giam, có khi nào lão cảm nhận được sự thoáng mát từ cây cỏ đâu. Đầu lão bỗng nhức như búa bổ. Dừng lại, móc thuốc tăng lực nuốt. Lão bỗng nhớ hồi cuối tháng ba, bẩy nhăm (1975) ra Nha Trang chơi, đúng vào lúc quân lực Việt Nam Cộng hòa bị tấn công ở cao nguyên Trung phần, cái lệnh “tùy nghi di tản” của ông Thiệu đã phá hỏng tất cả. Việt Cộng ào ạt tràn vô, cháy thành vạ lây lão bị kẹt lại. Đến khi mò về được nhà thì Sài Gòn đã thất thủ, ngôi biệt thự của lão trống không, hoang tàn, thằng con cùng vợ con đã tếch được ra Hạm đội 7. Hoang mang cực độ, chưa biết tính sao thì có người bạn trước ở sở cảnh sát đô thành cùng về hưu một ngày với lão rủ đi trình diện với cách mạng. Lão hỏi, liệu người có nợ máu, ba đời làm giám thị nhà giam có bị Việt Cộng trả thù không? Người bạn bảo, ta trót đời rồi, chẳng còn cách nào khác, họ muốn làm chi thì làm. Song cách mạng đã đối xử nhân đạo với lão, không đánh đập, xỉ nhục, cải huấn một thời gian rồi cho về. Giờ đây lão bỗng thấy sợ, nhỡ việc không thành thì sao? Chắc hẳn sẽ chết rục xương trong cái khám lớn Chí Hòa mà từ đời ông nội, bố, rồi truyền đến lão đều cầm cái dùi cui cai quản tù nhân. Âu cũng là nhân-quả. Lão bỗng thấy thối chí, hoang mang. Hay quay về? Lão sống cô đơn không họ hàng thân thích, vàng bạc tích cóp được lại bị vợ chồng cậu quý tử cuỗm sạch, lâu nay lão vẫn phải sống nhờ vào số tiền hàng thằng con bên kia bờ đại dương gửi về, bán ăn dần.

“… Ba nhất định phải làm việc này! Rồi đây chúng con chỉ gửi đồ về khi đã nhận được hài cốt của Bob”. Ghê chưa! Nó chơi bài ngửa với bố già của nó vậy đấy. Vài ngày trước, người trong đường dây của nó đến liên hệ với lão. Đó là một thằng mặt mũi gớm giếc: thấp, to bè, cái mũi sư tử chồm hỗm, mắt thì híp lộ vẻ lỳ đòn. Hôm đó lão đang mong có giấy lãnh đồ vì thông lệ cứ đầu tháng là lão gõ ba toong đến nhà bưu chánh thành phố. Đã hai tháng rồi sao vẫn im re? Giữa lúc đó thằng Mũi To đưa thư tới. Vừa gặp, nó đã gằn giọng hỏi một câu làm lão hoảng hồn: Thưa, cụ có phải cai ngục Đàm Trấn Lôi thân sinh thiếu tá an ninh quân lực Việt Nam Cộng hòa Đàm Quan Lộc, hiện đang cư ngụ tại Lôt An-giơ-lét không? Từ ngày cải huấn về, chưa ai đến lão nói giọng điệu vậy. ắt có chuyện gì rất hệ trọng. Lão gật. Lập tức thằng Mũi To lấy trong cặp ra một bọc khá to. “Trong này có đồ và thơ của quý anh”. Nói rồi gã vụt biến như khi xuất hiện. Lão đọc đi đọc lại lá thư “trao trách nhiệm” của thằng con, nhập tâm rồi đốt. Tìm cuốn nhật ký số 5, đọc kỹ, theo lời con dặn, lão cũng thiêu luôn tờ đó.

Một làn gió thổi đến, lão hít hà một hồi thấy đầu nhẹ nhõm được đôi phần. Ôi, ta lại lẩn thẩn rồi! Không thể trở về tay không. Không thể để mất cơ hội ngàn năm có một, khó nhọc chút xíu, sung sướng muôn đời. Ai chứ, thằng con tinh khôn của lão mà có vốn liếng trong tay sẽ buôn bán xoay xỏa chẳng mấy chốc mà thành tỷ phú như lão Pete. Nó sênh sang, thì không thể nuốt lời, nó còn có thể bảo lãnh cho lão sang đoàn tụ với con cháu. Những ý nghĩ ấy làm lão phấn chấn, có lúc còn lẩm nhẩm: một triệu; một triệu đô-la… như một khúc quân hành. Bất giác lão ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

Cây chò sừng sững như cái cột chống trời. Khi lão vừa định bước lên đoạn rễ nổi tựa cái vây lưng của con cá mập, thì bỗng nghe từ xa có tiếng người huyên náo. Giật thót. Lão chui ngay vào giữa một bụi cây rậm rì bên đường. Nhìn ra: trên lối mòn có một đoàn thiếu nhi mười hai, mười ba tuổi gõ trống ếch thổi kèn đồng um sùm. Đi đầu, còn có một ông già râu tóc bạc phơ, nhỏ thó và hai người mặc quân phục, một già, một trẻ, lon trung tá và thiếu úy. Trống ngực lão đập thình thịch, cố thu người nhỏ lại cho lẫn vào gai góc, lá cành. Cuối đoàn còn có mấy cô cậu mang theo xẻng cuốc, tiểu sành. Đoàn người có bao nhiêu là con mắt, nhưng may mắn làm sao, họ đến cách bụi rậm chừng chục mét rồi quẹo cả sang bãi cỏ rộng, đứng tập trung dưới tán cây chò.

Mọi người lắng nghe ông trung tá (giọng Nam Bộ vang xa). Lão hiểu ngay: họ cũng tìm kiếm hài cốt, nhưng là của một Việt Cộng tử trận cùng thời điểm với chiếc Phalltom của Bob rớt xuống cánh rừng này. Theo tay chỉ của trung tá, mấy cô cậu đến một mô đất cao, chếch về phía bắc và bắt đầu hì hụi đào. Cụ già lặng lẽ cắm bó nhang đã đốt cắm xuống cạnh chỗ đang đào. Đoàn thiếu nhi trống kèn tụ tập trước một cô gái dáng thanh mảnh, cổ quàng khăn đỏ. Cô ta bùi ngùi nói với lũ nhóc:

– Các em. Đây là nơi chôn liệt sĩ Nguyễn Mạnh Dũng trong chiến tranh. Chính trung tá Huỳnh cùng các đồng đội trong tiểu đội bắn máy bay đã chôn cất người chỉ huy khẩu đội mình. Hôm nay ngày lành tháng tốt, sang cát, rước liệt sĩ về yên nghỉ tại nghĩa trang của quê hương ngoài Bắc. Cô gái nói xong dẫn đoàn thiếu nhi mang trống, kèn đứng xung quanh nơi mấy thanh niên đang đào. Phía trên chỗ đào được che bằng một tấm nilon. Hố đào không sâu lắm, hài cốt đã lộ ra. Vài người lấy can nước đỏ và và can rượu bắt đầu tẩy rửa từng khúc xương trước khi đặt vào cái tiểu sành đã lót vải đỏ. Khói hương nghi ngút. Lão còn nghe được cả tiếng người cha già cất lên tiếng gọi ai oán: “Con ơi!”; tiếng cậu thiếu úy: “Cha ơi!”. Cả đoàn ai cũng sụt sùi. Bọn trẻ thật mau nước mắt, lão nghĩ, từ trẻ đến giờ chưa bao giờ lão biết khóc, kể cả khi bố mẹ, rồi vợ chết, mắt lão vẫn ráo hoảnh. Có lẽ lão đã chứng kiến bao cái chết thảm của người tù, lòng trở nên chai đá, máu đã lạnh tanh. Bỗng dưng lão tự hỏi: không biết khi nghe tin thằng con nối dõi tông đường tử nạn, tỷ phú Pete có nhỏ giọt nước mắt nào không?

Rồi lão không muốn nhìn, muốn nghĩ về toán người không hẹn mà gặp kia nữa, hướng về phía cây chò để định vị cái đích “một triệu đô” thằng con đã ghi trong nhật ký: cách cái rễ nổi vây cá nửa mét là hòn đá “đầu sư”, bước tiếp hai bước về hướng mặt trời lặn chính là nơi chôn Bob. Lão dướn mắt ra xa, chỗ ấy sau nhiều năm đã mọc lên một bụi cây khá rậm.

Không ngờ việc cải táng lại dềnh dàng đến vậy, Đàm Trấn Lôi nhìn đồng hồ, đã gần mười bảy giờ chiều, thế là hỏng kế hoạch đưa Bob về thị xã trước khi trời tối. Ruột gan lão nóng như có lửa đốt, đành phải thu lu bó gối chờ đợi. Đến khi mọi việc đã hoàn tất, mấy gã choai đã quàng dây thừng vào cái tiểu sành được bọc trong lá cờ đỏ, chuẩn bị khiêng, thì ông trung tá bảo với mọi người:

– Các cháu ạ, từ trước đến giờ còn có một sự hiểu lầm với liệt sĩ Nguyễn Mạnh Dũng làm gia đình liệt sĩ chịu tiếng oan bao năm nay. Giờ trước khi về, chú muốn con trai liệt sĩ là thiếu úy Nguyễn Mạnh Kha đây, kể lại cho mọi người rõ về một sự thật đã xảy ra tại khu rừng chiến địa này gần mười năm về trước.

Mọi người ngồi cả xuống bãi cỏ, xung quanh cậu thiếu úy. Cậu ta kể:

– Chiến sự tại đây diễn ra giữa năm 1967, từ đó gia đình bặt tin cha tôi. Cơ quan chính sách của tỉnh đội cũng không biết được gì hơn, chỉ báo là cha tôi mất tích. Đến ngày nước nhà thống nhất, có người ở quê tôi trong lần vào Nam tìm người thân, đã thấy một bia mộ trong nghĩa trang ngụy Sài Gòn, tên tuổi, quê quán cha tôi, lại ghi quân hàm trung úy quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền địa phương liền khẳng định cha tôi chiêu hồi, gia đình tôi không những không được hưởng chế độ chính sách, mà còn bị mang tiếng với bà con chòm xóm. Mẹ tôi ốm quặt quẹo, được vài năm đau buồn mà sinh bệnh mất. Còn ông nội tôi đây, ngay từ đầu đã khẳng định không khi nào cha tôi chiêu hồi và cụ đã cố sống đến tận ngày nay để đưa được hài cốt cha tôi về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ quê nhà. Trước sự việc trên, tôi đã đến nhiều nơi, chủ ý tìm các chú là bạn bè cũ của đơn vị cha tôi để hỏi, song cũng không gặp được ai. Gần đây biết trên báo Quân đội nhân dân có mục tìm người thân, tôi liền viết thư kể trường hợp mất tích của cha. May mắn làm sao, chú Huỳnh còn đang công tác ở huyện đội Cà Mau đọc được tin đó, liền tìm cách liên hệ với gia đình tôi. Rồi chú nghỉ phép, về tận quê tôi và muốn được cùng gia đình trở lại cánh rừng này để tìm mộ cha tôi mà chú còn nhớ rất rõ. Đó là buổi sáng ngày sắp kết thúc chiến dịch Gian-xơn Xi-ti, khẩu đội súng máy 12,7 ly do cha tôi chỉ huy đã hạ tại chỗ một máy bay F4H, vẫn gọi là “Con ma” của không lực Hoa Kỳ. Khẩu đội vừa định di chuyển thì bị pháo địch dập vào giữa đội hình. Cha tôi bị thương vào đầu, ngay sau khi băng bó tại chỗ, ông đã trút hơi thở cuối cùng. Thi thể cha tôi được chú Huỳnh cùng các đồng đội bọc trong tấm tăng và chôn gần trận địa, gốc chò được lấy làm mốc để về sau dễ tìm…

Đàm Trấn Lôi dỏng tai nghe. Lão giật thót. Trời xui đất khiến thế nào mà những kẻ ở cả hai trận tuyến trong cuộc càn ngày ấy lại có mối liên hệ với nhau nghiệt ngã đến vậy! Nguyễn Mạnh Dũng hạ rớt Bob, con trai lão thì gọi pháo xóa sổ khẩu đội phòng không đó. Thêm một điều tình cờ nữa. Hai kẻ xấu số đều được đào lên một ngày, sẽ cùng hồi hương, kẻ được minh oan, kẻ thành món hàng được ngã giá một triệu đô.

Mãi đến khi nắng tắt hẳn trên tán cây chò, đoàn người mới lên đường. Chúng vừa đi khuất, lão vội phóng ra khỏi bụi rậm như con chó bị nhốt lâu được tháo xích. Lão hướng ngay đến nơi hòn đá đầu sư. Chợt nghe như có tiếng ai ho nhẹ phía sau, lão vội dừng bước, ngoái lại. Rừng chiều vắng lặng, heo hút. Lão tự nhủ: thần hồn nát thần tính đó mà. Lại một con chim to phía sau lưng bất ngờ từ bụi cây vỗ cánh bay ra làm lão giật thót. Trời tối nhanh. Cái bụi cạnh hòn đá đầu sư có nhiều cây non ken dày xung quanh như một hàng rào. Lão sực nhớ hôm nay là ngày rằm. Lão thong thả rút trong túi dết cái xẻng quân dụng sắc bén.

– Cầu đức Phật phù hộ độ trì cho con – Lão chắp tay lầm rầm khấn khứa – Đây đúng là mồ thằng Bob khốn kiếp!

Nhổ nước bọt vào gan bàn tay, lão phóng xẻng vào đất, may mắn đất ướt và tơi, lút lưỡi xẻng. Đã hớt hết lớp cỏ và mùn đất thành một khoảng chữ nhật vuông vắn. Mồ hôi lão đẫm sống lưng, giọt trên trán chảy vào mắt cay xè. Xung quanh tối đen như mực. Tiếng côn trùng râm ran. Đom đóm lập lòe. Rào rào mối chạy trong tầng lá mục. Sáu mươi năm của cuộc đời, đây là lần đầu tiên lão ở nơi lam sơn chướng khí. Lão hối hả xúc, cũng còn để quên đi nỗi sợ có kẻ đang rình rập. Lại nghe có tiếng ho khan như hồi chiều. Lão dừng xẻng, nghe ngóng. Bốn bề lặng phắc. Lùm cây xung quanh làm thành các hình thù kỳ quái, hăm dọa. Đúng lúc đó, khoảng trống quanh hòn đá bỗng sáng bừng như có ngọn đèn pha vừa được bật. Ánh trăng rằm. Mặt trăng đã nhô cao hơn tán chò, tãi xuống khu rừng thứ ánh sáng bạc lạnh lẽo. “Công trình một triệu đô” của lão được chiếu sáng đúng lúc.

Lão đào tiếp. Dễ được nửa mét, vẫn không thấy gì. Nếu sai chỗ thì đành bỏ, không còn sức để làm lại từ đầu. Buông xẻng, lão nằm vật, thở như bò rống. Lão lịm đi mươi phút, một giấc ngủ ngắn ngủi không mộng mị mà cả đời lão chưa bao giờ có được. Choàng tỉnh. Đã thấy người khỏe hơn. Lão phóng lưỡi xẻng xuống. Bỗng nó đổ gục do không mút chắc được vào tầng đất mới. Linh tính về sự may mắn, lão chồm dậy. Gạt xẻng ra. Mười đầu ngón tay của lão cấu mạnh vào tầng đất ẩm. Đất vụn bắn rào rào xuống thảm lá. Vật gì dài, trắng? Cầm lên: cái xương ống chân. “Bốp!” Lão bật ra tiếng rú và hua cái xương ống lên trời như múa đoản côn. Những khúc xương khác lần lượt được moi dễ dàng trong lớp đất cực xốp. Thiếu chút nữa lão hét to: Con ta ơi, triệu đô đây rồi! Nhưng lão kìm lại. Đến cái sọ. “Bốp ơi!” Lão khe khẽ gọi và gõ gõ, có tiếng bục bục phát ra từ hộp sọ như tiếng đáp lại của thằng phi công xấu số năm nào. Lão chợt thấy hộp sọ trắng hếu có mấy vệt đen. Nhơm nhớp. Máu. Thì ra cả mười đầu ngón tay lão đã rớm máu.

Lão không cảm thấy đau, quơ tay tiếp vào tầng xốp. Chạm phải vật sắc cạnh: cái mề -đay, sau là nắp bút và một đồng bạc. Chẳng mấy chốc xung quanh la liệt những xương và xương. Lão vun lại một đống. Tưởng không còn gì nữa, lão định gói gém lại thì bất ngờ chạm vào một tấm bìa nilon nhỏ. Móc túi hộp quẹt và bật, lão nhìn thấy dòng chữ trên tấm bìa: “Bob Robinxon”…

Bỗng, như có ai đang đứng cạnh? Ngẩng lên. Xuất hiện bóng đen lù lù. Một vật cứng giáng vào đầu lão…

Lý Nam Đế, Hà Nội 10-1981

P.Q.Đ

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder