
Văn hóa của chúng ta, tầm vóc của chúng ta, làm nên tất cả như ngày hôm nay, tốt cũng có và xấu cũng có, không nên đổ lỗi cho ai cả. Tầm vóc đội ngũ trí thức hôm nay còn rất xa so với yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước…
Văn hóa của chúng ta, tầm vóc của chúng ta, làm nên tất cả như ngày hôm nay, tốt cũng có và xấu cũng có, không nên đổ lỗi cho ai cả. Tầm vóc đội ngũ trí thức hôm nay còn rất xa so với yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trí thức mới mà chúng ta cần có trong tương lai phải là những con người đàng hoàng, tử tế, có tri thức, tình cảm và trách nhiệm. Để có điều đó không phải chỉ đầu tư cho đào tạo là đủ, mà là cần hạn chế tất cả các mặt xấu và phát huy các mặt tốt xung quanh họ…
1. Dân tộc ta luôn quật cường trỗi dậy sau những đêm trường nô lệ. Chúng ta đã từng mất nước, nhưng gần như chưa hề bị mất làng. Văn hóa làng là văn hóa giữ nước của người Việt. Nhưng phía bên kia giá trị của văn hóa làng, phải chăng cũng là nơi ẩn nấp cho những khuyết tật hạn chế, kìm hãm sự tiến bộ. Cái cách nghĩ “thua thầy một vạn chứ không chịu kém bạn một li”, đã làm cho cái “thiên hạ” trong mắt mỗi cá nhân trở nên vô cùng nhỏ bé. Rồi những giấc mơ thần kiểu “sáng cấy chiều gặt”, tạo nguồn cho đức tính thiếu kiên nhẫn, thậm chí có phần hoang tưởng nữa. Tính cục bộ, sự đố kỵ…, luôn diễn ra trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Nó phổ biến đến nỗi khiến đại thi hào Nguyễn Du đã phải chua chát buông lời: Lạ gì bỉ sắc tư phong,/Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cái góc khuất ấy không có chỗ cho những nhân tài, cho những sáng tạo, những chí hướng khác thường, những đột phá phát triển. Cái góc khuất ấy đã và sẽ là một lực cản rất lớn trong quá trình kiến quốc, là mầm mống gây nên sự chia rẽ, cát cứ, suy yếu, thậm chí dẫn đến làm mất nước.
2. Kể từ khi chấp chính, Đảng Cộng Sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã chủ trương xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Kết quả là chúng ta đã có một lớp người, trong đó có tầng lớp trí thức, đáp ứng xuất sắc sứ mệnh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Nhưng cũng trong bối cảnh “tất cả cho tiền tuyến”, trên thực tế đã hình thành dần một bộ phận ăn theo, mà bản thân họ không đủ giác ngộ về Đảng, giác ngộ về bổn phận đối với đất nước. Chính bộ phận này đã gây cản trở không nhỏ tới nhiều chủ trương chính sách lớn của Đảng, đặc biệt là đường lối xây dựng đội ngũ trí thức. Cảnh đời “con xanh đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi” đã từng không hiếm. Mà hệ lụy là tạo nên một lớp công chức, trí thức, đảng viên kém phẩm chất, bên cạnh đó là làm nhụt đi ý chí của không ít các nhân tố tích cực, rất cần cho sự nghiệp cách mạng của một Đảng chân chính. Vì vậy, mặc dù chúng ta đã có một thế hệ trí thức khá đông đảo, nhưng một số không ít trong lớp người này không phải là những đại diện xứng đáng cho các vị trí mà họ được tuyển chọn. Một phần nguyên nhân là bởi chiến tranh, nhiều thanh niên ưu tú phải xa rời trường học để ra mặt trận. Bởi chính sách ưu tiên thái quá của một thời người ta dành cho những cá nhân, vốn là những người còn bất cập về tài năng và thiếu tự giác trong tu dưỡng và học tập, thiếu giác ngộ về bổn phận đối với đất nước. “Chủ nghĩa thành phần” cũng khiến cho không ít thanh niên xuất sắc bị ngừng học, hoặc phải xa rời những vị trí và những nơi đào tạo rất cần có họ. Không ít nơi đã cố tình vận dụng sai chính sách của Đảng, để tạo nên sự phân biệt đối xử vô lý khiến cho nhiều kẻ được ưu đãi thì có xấu cũng được cất nhắc. Đáng tiếc, ở họ, hình như văn hóa, tình cảm và đạo đức chưa đủ lớn để đón nhận những triết lý huyền diệu của cuộc sống, và những lý thuyết khoa học thâm sâu của nhân loại. Ngoài một ít kiến thức được truyền trao, họ còn thiếu bản lĩnh, tính cách, ý chí của một công dân có trách nhiệm để có đóng góp cho sự phát triển đất nước. Họ ngộ nhận về khả năng của mình và không biết trân trọng và đánh giá đúng thành tài năng và thành quả lao động của người khác. Họ nhìn nhận cái danh, sự cống hiến và thành đạt một cách sai lệch. Họ không giống “kẻ sĩ” của bất cứ thời đại nào, mà trái lại họ là một lớp người quen sinh hoạt công cộng, ưa các hoạt động bề nổi, sính phô trương vật chất, và không ý thức được cái bổn phận mà họ cần phải gánh vác… Không ít kẻ đã lấy tấm gương của bọn “tham quan” làm mục tiêu phấn đấu của đời mình. Còn những cá nhân biết say mê với học thuật và nghề nghiệp thì không ít người sớm bị cô lập, bị chụp mũ là “chuyên môn thuần túy”. Trong bối cảnh như vậy, liệu có sản sinh ra những trí thức lớn hay không?
Sự giác ngộ về bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nước là tiền đề quan trọng làm nên sức mạnh của một dân tộc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh do sớm giác ngộ sâu sắc được bổn phận đối với đất nước nên đã đón nhận trí tuệ và tinh hoa văn hóa của nhân loại, kể cả con đường cứu nước như một nhu cầu tự thân. Chính vì vậy, Người đã cảm hóa được một đội ngũ trí thức tài năng có nhân cách lớn đi theo cách mạng. Đội ngũ này đã dám từ bỏ những vị trí cao sang để theo Đảng thực hiện sứ mệnh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ giành độc lập và kháng chiến cứu quốc, chúng ta đã có một đội ngũ trí thức, tuy không đông, nhưng đã có những đóng góp rất to lớn cho đất nước. Họ đã từng phải làm cả cái sứ mệnh biến “những kẻ quê mùa trở thành trí thức”. Thế hệ trí thức cũ qua đi, còn lại đội ngũ trí thức mới, với không ít những đứa con được đẻ ra từ chính sách ưu tiên và thời chiến. Không ít trong đội ngũ này, một phần còn hạn chế về trình độ, một phần còn chưa được sử dụng một cách có hiệu quả. Một bộ phận khác tuy có chuyên môn cao, nhưng họ luôn lo ngại vì sợ bị “chụp mũ”. Còn những người được ưu ái đặc biệt thì tận hưởng những thành quả cách mạng của cha anh, sớm tìm con đường xa chuyên môn để nhanh được tiến thân. Hình như quá trình giáo dục và đào tạo vẫn chưa đủ để nhiều người trong đội ngũ trí thức mới “lột xác”, điều mà Tổ Quốc cần ở họ. Vì thế một bộ phận không nhỏ đã sống a dua theo đám đông và cấp trên, “gió chiều nào che chiều đó” và mang bên mình lý thuyết “hạt cát trong sa mạc”. Một số khác sành sỏi trong việc tung ra những vũ khí xảo biện, những ngón đòn của bọn “đạo chích” để hòng làm nhụt các khí phách cá nhân quanh họ, nghiền nát sinh khí của tầng lớp trí thức chân chính.
Sự nghiệp Đổi mới tới, đó là cơ hội cho đội ngũ trí thức đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Nhưng đáng tiếc, hầu như đóng góp của tầng lớp trí thức trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là chưa tương xứng. Ngược lại, để đua ganh với các thành phần kinh tế khác, người ta mang tinh thần “chợ trời” vào trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu…, cốt sao kiếm được nhiều tiền. Mấy chục năm cải cách giáo dục và thi cử mà vẫn chưa đâu vào đâu. Nhan nhản trường lớp và những người đi học, nhưng lại không nhiều người thực học. Người mang danh nhà khoa học thì đông, người làm khoa học thì ít. Đất nước còn nghèo, nhưng đã phải tiêu phí rất nhiều tiền cho những dự án vô bổ, nằm trong tay những kẻ giả danh khoa học. Những tiếng nói tâm huyết đâu đó đã trở thành xa lạ và lạc lõng. Sự tôn nghiêm của nơi học thuật, tưởng như vĩnh hằng đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc, và mọi thời đại, nay đã bị tổn thương. Lạm phát bằng cấp và học hàm, học vị, cùng các trường đại học, diễn ra đến chóng mặt. Thiên hạ có thứ gì người ta cũng cố nặn ra thứ đó, chỉ khác là nó được chế tác bởi những người làm “hàng mã”(!?)
3. Hơn bao giờ hết, để phát triển đất nước, chúng ta đang rất cần có một đội ngũ trí thức chân chính, văn minh và minh triết. Đó là một lớp người phải có văn hóa cao, có bản lĩnh vững vàng, có chí tiến thủ, có đức hy sinh, cần mẫn và nhẫn nại, xứng đáng là tinh hoa của dân tộc. Một lớp người trung thực, có nhân cách lớn, giác ngộ được bổn phận của cá nhân đối với gia đình và đất nước, là lực lượng xung kích trong mọi lĩnh vực, có tư duy phản biện cao và sáng suốt. Một lớp người có giác ngộ tri thức, thấm nhuần tri thức bằng cả tình cảm, tư tưởng và hành động, học phải đi đôi với hành, biết vận dụng tri thức một cách sáng tạo; Có hoài bão lớn lao đưa đất nước đi lên, mẫu mực và đi đầu trong lao động sáng tạo, có tình nhân ái bao la với cộng đồng và nhân loại; Có lòng tự trọng cao và say mê với nghề nghiệp, vững vàng về chuyên môn, có hiểu biết rộng, có tư duy phân tích gắn liền với tư duy tổng thể, năng động và hội nhập, có khả năng liên kết cao trong lao động tập thể, thích ứng nhanh trong quá trình đổi mới; Có tầm nhìn xa và giàu ý tưởng, hiểu sâu sắc các bài học từ lịch sử, biết đặt vấn đề cho hiện tại và hướng tới tương lai; Luôn biết học hỏi không ngừng, biết khơi nguồn thức dậy cho năng lực bản thân và đồng nghiệp, có xúc cảm cao về trí tuệ, đạo đức và nhân cách, biết đau những nỗi đau của dân tộc, của đất nước và của nhân loại, biết công phẫn và nhức nhối trước những thói hư tật xấu, biết yêu lẽ phải và dũng cảm trong đấu tranh và bảo vệ công lý. Họ cần biết khiêm tốn và biết tự đánh giá đúng bản thân, trân trọng thành quả của đồng nghiệp và biết học hỏi, lắng nghe, và chia sẻ với những người xung quanh, có đạo đức nghề nghiệp cao, không đố kỵ, có khả năng cạnh tranh lành mạnh. Họ phải là lớp người biết phát huy những mặt tốt văn hóa dân tộc, gương mẫu trong việc xóa bỏ tàn dư của những thứ văn hóa xấu, biết tiếp thu những văn hóa tinh hoa của nhân loại để làm giàu thêm văn hóa dân tộc… Cuối cùng họ phải là những người có thể chất tốt, biết rèn luyện và giữ gìn sức khỏe, biết sống tích cực và lành mạnh, thân thiện với môi trường.
4. Văn hóa của chúng ta, tầm vóc của chúng ta, làm nên tất cả như ngày hôm nay, tốt cũng có và xấu cũng có, không nên đổ lỗi cho ai cả. Tầm vóc đội ngũ trí thức hôm nay còn rất xa so với yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Làm gì để khắc phục? Hãy nghiêm khắc nhìn lại tất cả các sai lầm của chúng ta. Đặc biệt những sai lầm về đào tạo và sử dụng con người. Cần nhận ra rằng, một trong những nguyên nhân sinh ra nhiều bất ổn hôm nay, là số đông trong chúng ta đã mang những khuyết tật rất cơ bản về “đạo làm người”, khuyết tật của “văn hóa lúa nước”, những di chứng của “thời chiến” của chế độ bao cấp… Hãy rộng mở để đón nhận những nhân tố mới, sẵn sàng và chủ động làm cái bổn phận “dọn ổ”, để trong một tương lai gần có một lớp người mới văn minh và minh triết ra đời. Một lớp người giác ngộ đầy đủ về bổn phận cá nhân đối với dân tộc, xứng đáng làm chủ nhân thực sự của đất nước này.
Làm thế nào để có một thế hệ trí thức mới văn minh và minh triết? Đây là vấn đề chiến lược về con người, một bài toán hóc búa nhất trong thời đại của chúng ta! Riêng ở nước ta thì khó khăn này còn tăng lên gấp bội. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có những cải biến sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, nhất là văn hóa và giáo dục… Cần phải có sự nỗ lực ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhưng trước hết hẳn cần phải có một nền hành chính lành mạnh. Tinh giản tối đa bộ máy quản lý nhà nước ở tất cả các cấp để xã hội không phải gồng mình gánh chịu sự hành hạ của nó… Kẻ có quyền thì tìm cách gây sức ép để trục lợi, kẻ ít quyền hơn thì bỏ bê công việc, người nông dân thì mang những thực phẩm nhiễm độc đi bán…Mỗi người trốn tránh trách nhiệm với tất cả, và tất cả vô trách nhiệm với mỗi người. Hỏi còn đâu niềm tin, tình nhân ái, và sức lực làm việc?! Đáng sợ hơn, hình như người ta đã quen, đã chai sạn, đã vô cảm, tựa hồ như không gì xảy ra, đối với những tiêu cực diễn ra quanh họ. Nền văn hóa của chúng ta đang bị nhiễm độc trầm trọng! Nếu chúng ta không sớm cải tổ, thì thế hệ sau cũng sẽ bị nhuộm đen!
Đi liền với cải tổ nền hành chính và văn hóa, cần quyết liệt cải cách và chấn hưng giáo dục; cải tổ sâu sắc nền khoa học xã hội và nhân văn. Hãy kiên nhẫn và tránh những mục tiêu ảo, kiểu “đại nhảy vọt” trong giáo dục và đào tạo, trong khoa học và công nghệ. Phải đặc biệt chú ý giáo dục chất lượng toàn diện, và giáo dục chất lượng cao; Tinh giản chương trình và loại bỏ những môn học không còn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới đương đại. Đầu tư thích đáng vào những cơ sở đào tạo trọng điểm, và nhanh chóng xóa bỏ những cơ sở đào tạo chất lượng kém. Thị trường hóa GD và ĐT, KH và CN ở mức cao nhất có thể, kèm với hệ thống thanh tra hiệu quả. Nhớ rằng, chúng ta xây dựng một “xã hội hoc tập”, quyết không phải là một “xã hội trường lớp”, bằng cấp như hiện nay. Dùng người theo khả năng, không theo bằng cấp. Làm sao để sinh viên giỏi ra trường được mời chào làm việc, mà không bị những sinh viên ở những cơ sở đào tạo rất thấp chiếm hết chỗ, vân vân và vân vân. Đó là những điều chúng ta tự gây ra, và chúng ta phải tự thay đổi.
Trí thức mới mà chúng ta cần có trong tương lai phải là những con người đàng hoàng, tử tế, có tri thức, tình cảm và trách nhiệm. Để có điều đó không phải chỉ đầu tư cho đào tạo là đủ, mà là cần hạn chế tất cả các mặt xấu và phát huy các mặt tốt xung quanh họ, tác động đến họ, giúp cho họ có khả năng kìm nén những thói quen xấu và nuôi dưỡng sự lạc quan, niềm tin và trách nhiệm với đất nước.
(nguồn VHNA)
Cần bắt đầu xây dựng một thế hệ trí thức mới – Dương Quốc Việt
NVTPHCM- Trí thức mới mà chúng ta cần có trong tương lai phải là những con người đàng hoàng, tử tế, có tri thức, tình cảm và trách nhiệm. Để có điều đó không phải chỉ đầu tư cho đào tạo là đủ, mà là cần hạn chế tất cả các mặt xấu và phát huy các mặt tốt xung quanh họ…
1. Dân tộc ta luôn quật cường trỗi dậy sau những đêm trường nô lệ. Chúng ta đã từng mất nước, nhưng gần như chưa hề bị mất làng. Văn hóa làng là văn hóa giữ nước của người Việt. Nhưng phía bên kia giá trị của văn hóa làng, phải chăng cũng là nơi ẩn nấp cho những khuyết tật hạn chế, kìm hãm sự tiến bộ. Cái cách nghĩ “thua thầy một vạn chứ không chịu kém bạn một li”, đã làm cho cái “thiên hạ” trong mắt mỗi cá nhân trở nên vô cùng nhỏ bé. Rồi những giấc mơ thần kiểu “sáng cấy chiều gặt”, tạo nguồn cho đức tính thiếu kiên nhẫn, thậm chí có phần hoang tưởng nữa. Tính cục bộ, sự đố kỵ…, luôn diễn ra trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Nó phổ biến đến nỗi khiến đại thi hào Nguyễn Du đã phải chua chát buông lời: Lạ gì bỉ sắc tư phong,/Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cái góc khuất ấy không có chỗ cho những nhân tài, cho những sáng tạo, những chí hướng khác thường, những đột phá phát triển. Cái góc khuất ấy đã và sẽ là một lực cản rất lớn trong quá trình kiến quốc, là mầm mống gây nên sự chia rẽ, cát cứ, suy yếu, thậm chí dẫn đến làm mất nước.
2. Kể từ khi chấp chính, Đảng Cộng Sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã chủ trương xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Kết quả là chúng ta đã có một lớp người, trong đó có tầng lớp trí thức, đáp ứng xuất sắc sứ mệnh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Nhưng cũng trong bối cảnh “tất cả cho tiền tuyến”, trên thực tế đã hình thành dần một bộ phận ăn theo, mà bản thân họ không đủ giác ngộ về Đảng, giác ngộ về bổn phận đối với đất nước. Chính bộ phận này đã gây cản trở không nhỏ tới nhiều chủ trương chính sách lớn của Đảng, đặc biệt là đường lối xây dựng đội ngũ trí thức. Cảnh đời “con xanh đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi” đã từng không hiếm. Mà hệ lụy là tạo nên một lớp công chức, trí thức, đảng viên kém phẩm chất, bên cạnh đó là làm nhụt đi ý chí của không ít các nhân tố tích cực, rất cần cho sự nghiệp cách mạng của một Đảng chân chính. Vì vậy, mặc dù chúng ta đã có một thế hệ trí thức khá đông đảo, nhưng một số không ít trong lớp người này không phải là những đại diện xứng đáng cho các vị trí mà họ được tuyển chọn. Một phần nguyên nhân là bởi chiến tranh, nhiều thanh niên ưu tú phải xa rời trường học để ra mặt trận. Bởi chính sách ưu tiên thái quá của một thời người ta dành cho những cá nhân, vốn là những người còn bất cập về tài năng và thiếu tự giác trong tu dưỡng và học tập, thiếu giác ngộ về bổn phận đối với đất nước. “Chủ nghĩa thành phần” cũng khiến cho không ít thanh niên xuất sắc bị ngừng học, hoặc phải xa rời những vị trí và những nơi đào tạo rất cần có họ. Không ít nơi đã cố tình vận dụng sai chính sách của Đảng, để tạo nên sự phân biệt đối xử vô lý khiến cho nhiều kẻ được ưu đãi thì có xấu cũng được cất nhắc. Đáng tiếc, ở họ, hình như văn hóa, tình cảm và đạo đức chưa đủ lớn để đón nhận những triết lý huyền diệu của cuộc sống, và những lý thuyết khoa học thâm sâu của nhân loại. Ngoài một ít kiến thức được truyền trao, họ còn thiếu bản lĩnh, tính cách, ý chí của một công dân có trách nhiệm để có đóng góp cho sự phát triển đất nước. Họ ngộ nhận về khả năng của mình và không biết trân trọng và đánh giá đúng thành tài năng và thành quả lao động của người khác. Họ nhìn nhận cái danh, sự cống hiến và thành đạt một cách sai lệch. Họ không giống “kẻ sĩ” của bất cứ thời đại nào, mà trái lại họ là một lớp người quen sinh hoạt công cộng, ưa các hoạt động bề nổi, sính phô trương vật chất, và không ý thức được cái bổn phận mà họ cần phải gánh vác… Không ít kẻ đã lấy tấm gương của bọn “tham quan” làm mục tiêu phấn đấu của đời mình. Còn những cá nhân biết say mê với học thuật và nghề nghiệp thì không ít người sớm bị cô lập, bị chụp mũ là “chuyên môn thuần túy”. Trong bối cảnh như vậy, liệu có sản sinh ra những trí thức lớn hay không?
Sự giác ngộ về bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nước là tiền đề quan trọng làm nên sức mạnh của một dân tộc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh do sớm giác ngộ sâu sắc được bổn phận đối với đất nước nên đã đón nhận trí tuệ và tinh hoa văn hóa của nhân loại, kể cả con đường cứu nước như một nhu cầu tự thân. Chính vì vậy, Người đã cảm hóa được một đội ngũ trí thức tài năng có nhân cách lớn đi theo cách mạng. Đội ngũ này đã dám từ bỏ những vị trí cao sang để theo Đảng thực hiện sứ mệnh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ giành độc lập và kháng chiến cứu quốc, chúng ta đã có một đội ngũ trí thức, tuy không đông, nhưng đã có những đóng góp rất to lớn cho đất nước. Họ đã từng phải làm cả cái sứ mệnh biến “những kẻ quê mùa trở thành trí thức”. Thế hệ trí thức cũ qua đi, còn lại đội ngũ trí thức mới, với không ít những đứa con được đẻ ra từ chính sách ưu tiên và thời chiến. Không ít trong đội ngũ này, một phần còn hạn chế về trình độ, một phần còn chưa được sử dụng một cách có hiệu quả. Một bộ phận khác tuy có chuyên môn cao, nhưng họ luôn lo ngại vì sợ bị “chụp mũ”. Còn những người được ưu ái đặc biệt thì tận hưởng những thành quả cách mạng của cha anh, sớm tìm con đường xa chuyên môn để nhanh được tiến thân. Hình như quá trình giáo dục và đào tạo vẫn chưa đủ để nhiều người trong đội ngũ trí thức mới “lột xác”, điều mà Tổ Quốc cần ở họ. Vì thế một bộ phận không nhỏ đã sống a dua theo đám đông và cấp trên, “gió chiều nào che chiều đó” và mang bên mình lý thuyết “hạt cát trong sa mạc”. Một số khác sành sỏi trong việc tung ra những vũ khí xảo biện, những ngón đòn của bọn “đạo chích” để hòng làm nhụt các khí phách cá nhân quanh họ, nghiền nát sinh khí của tầng lớp trí thức chân chính.
Sự nghiệp Đổi mới tới, đó là cơ hội cho đội ngũ trí thức đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Nhưng đáng tiếc, hầu như đóng góp của tầng lớp trí thức trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là chưa tương xứng. Ngược lại, để đua ganh với các thành phần kinh tế khác, người ta mang tinh thần “chợ trời” vào trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu…, cốt sao kiếm được nhiều tiền. Mấy chục năm cải cách giáo dục và thi cử mà vẫn chưa đâu vào đâu. Nhan nhản trường lớp và những người đi học, nhưng lại không nhiều người thực học. Người mang danh nhà khoa học thì đông, người làm khoa học thì ít. Đất nước còn nghèo, nhưng đã phải tiêu phí rất nhiều tiền cho những dự án vô bổ, nằm trong tay những kẻ giả danh khoa học. Những tiếng nói tâm huyết đâu đó đã trở thành xa lạ và lạc lõng. Sự tôn nghiêm của nơi học thuật, tưởng như vĩnh hằng đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc, và mọi thời đại, nay đã bị tổn thương. Lạm phát bằng cấp và học hàm, học vị, cùng các trường đại học, diễn ra đến chóng mặt. Thiên hạ có thứ gì người ta cũng cố nặn ra thứ đó, chỉ khác là nó được chế tác bởi những người làm “hàng mã”(!?)
3. Hơn bao giờ hết, để phát triển đất nước, chúng ta đang rất cần có một đội ngũ trí thức chân chính, văn minh và minh triết. Đó là một lớp người phải có văn hóa cao, có bản lĩnh vững vàng, có chí tiến thủ, có đức hy sinh, cần mẫn và nhẫn nại, xứng đáng là tinh hoa của dân tộc. Một lớp người trung thực, có nhân cách lớn, giác ngộ được bổn phận của cá nhân đối với gia đình và đất nước, là lực lượng xung kích trong mọi lĩnh vực, có tư duy phản biện cao và sáng suốt. Một lớp người có giác ngộ tri thức, thấm nhuần tri thức bằng cả tình cảm, tư tưởng và hành động, học phải đi đôi với hành, biết vận dụng tri thức một cách sáng tạo; Có hoài bão lớn lao đưa đất nước đi lên, mẫu mực và đi đầu trong lao động sáng tạo, có tình nhân ái bao la với cộng đồng và nhân loại; Có lòng tự trọng cao và say mê với nghề nghiệp, vững vàng về chuyên môn, có hiểu biết rộng, có tư duy phân tích gắn liền với tư duy tổng thể, năng động và hội nhập, có khả năng liên kết cao trong lao động tập thể, thích ứng nhanh trong quá trình đổi mới; Có tầm nhìn xa và giàu ý tưởng, hiểu sâu sắc các bài học từ lịch sử, biết đặt vấn đề cho hiện tại và hướng tới tương lai; Luôn biết học hỏi không ngừng, biết khơi nguồn thức dậy cho năng lực bản thân và đồng nghiệp, có xúc cảm cao về trí tuệ, đạo đức và nhân cách, biết đau những nỗi đau của dân tộc, của đất nước và của nhân loại, biết công phẫn và nhức nhối trước những thói hư tật xấu, biết yêu lẽ phải và dũng cảm trong đấu tranh và bảo vệ công lý. Họ cần biết khiêm tốn và biết tự đánh giá đúng bản thân, trân trọng thành quả của đồng nghiệp và biết học hỏi, lắng nghe, và chia sẻ với những người xung quanh, có đạo đức nghề nghiệp cao, không đố kỵ, có khả năng cạnh tranh lành mạnh. Họ phải là lớp người biết phát huy những mặt tốt văn hóa dân tộc, gương mẫu trong việc xóa bỏ tàn dư của những thứ văn hóa xấu, biết tiếp thu những văn hóa tinh hoa của nhân loại để làm giàu thêm văn hóa dân tộc… Cuối cùng họ phải là những người có thể chất tốt, biết rèn luyện và giữ gìn sức khỏe, biết sống tích cực và lành mạnh, thân thiện với môi trường.
4. Văn hóa của chúng ta, tầm vóc của chúng ta, làm nên tất cả như ngày hôm nay, tốt cũng có và xấu cũng có, không nên đổ lỗi cho ai cả. Tầm vóc đội ngũ trí thức hôm nay còn rất xa so với yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Làm gì để khắc phục? Hãy nghiêm khắc nhìn lại tất cả các sai lầm của chúng ta. Đặc biệt những sai lầm về đào tạo và sử dụng con người. Cần nhận ra rằng, một trong những nguyên nhân sinh ra nhiều bất ổn hôm nay, là số đông trong chúng ta đã mang những khuyết tật rất cơ bản về “đạo làm người”, khuyết tật của “văn hóa lúa nước”, những di chứng của “thời chiến” của chế độ bao cấp… Hãy rộng mở để đón nhận những nhân tố mới, sẵn sàng và chủ động làm cái bổn phận “dọn ổ”, để trong một tương lai gần có một lớp người mới văn minh và minh triết ra đời. Một lớp người giác ngộ đầy đủ về bổn phận cá nhân đối với dân tộc, xứng đáng làm chủ nhân thực sự của đất nước này.
Làm thế nào để có một thế hệ trí thức mới văn minh và minh triết? Đây là vấn đề chiến lược về con người, một bài toán hóc búa nhất trong thời đại của chúng ta! Riêng ở nước ta thì khó khăn này còn tăng lên gấp bội. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có những cải biến sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, nhất là văn hóa và giáo dục… Cần phải có sự nỗ lực ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhưng trước hết hẳn cần phải có một nền hành chính lành mạnh. Tinh giản tối đa bộ máy quản lý nhà nước ở tất cả các cấp để xã hội không phải gồng mình gánh chịu sự hành hạ của nó… Kẻ có quyền thì tìm cách gây sức ép để trục lợi, kẻ ít quyền hơn thì bỏ bê công việc, người nông dân thì mang những thực phẩm nhiễm độc đi bán…Mỗi người trốn tránh trách nhiệm với tất cả, và tất cả vô trách nhiệm với mỗi người. Hỏi còn đâu niềm tin, tình nhân ái, và sức lực làm việc?! Đáng sợ hơn, hình như người ta đã quen, đã chai sạn, đã vô cảm, tựa hồ như không gì xảy ra, đối với những tiêu cực diễn ra quanh họ. Nền văn hóa của chúng ta đang bị nhiễm độc trầm trọng! Nếu chúng ta không sớm cải tổ, thì thế hệ sau cũng sẽ bị nhuộm đen!
Đi liền với cải tổ nền hành chính và văn hóa, cần quyết liệt cải cách và chấn hưng giáo dục; cải tổ sâu sắc nền khoa học xã hội và nhân văn. Hãy kiên nhẫn và tránh những mục tiêu ảo, kiểu “đại nhảy vọt” trong giáo dục và đào tạo, trong khoa học và công nghệ. Phải đặc biệt chú ý giáo dục chất lượng toàn diện, và giáo dục chất lượng cao; Tinh giản chương trình và loại bỏ những môn học không còn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới đương đại. Đầu tư thích đáng vào những cơ sở đào tạo trọng điểm, và nhanh chóng xóa bỏ những cơ sở đào tạo chất lượng kém. Thị trường hóa GD và ĐT, KH và CN ở mức cao nhất có thể, kèm với hệ thống thanh tra hiệu quả. Nhớ rằng, chúng ta xây dựng một “xã hội hoc tập”, quyết không phải là một “xã hội trường lớp”, bằng cấp như hiện nay. Dùng người theo khả năng, không theo bằng cấp. Làm sao để sinh viên giỏi ra trường được mời chào làm việc, mà không bị những sinh viên ở những cơ sở đào tạo rất thấp chiếm hết chỗ, vân vân và vân vân. Đó là những điều chúng ta tự gây ra, và chúng ta phải tự thay đổi.
Trí thức mới mà chúng ta cần có trong tương lai phải là những con người đàng hoàng, tử tế, có tri thức, tình cảm và trách nhiệm. Để có điều đó không phải chỉ đầu tư cho đào tạo là đủ, mà là cần hạn chế tất cả các mặt xấu và phát huy các mặt tốt xung quanh họ, tác động đến họ, giúp cho họ có khả năng kìm nén những thói quen xấu và nuôi dưỡng sự lạc quan, niềm tin và trách nhiệm với đất nước.
(nguồn VHNA)