Trở về từ chiến tranh được hưởng chế độ bệnh binh 4/4, ông lao vào cuộc sống kinh doanh và viết như để trả nghĩa cho đời. Mỗi vần thơ của ông không chỉ là tâm tư của người trong cuộc mà còn là những nét chấm phá mở ra “cánh đồng nhận thức” tri ân đồng đội một thời không tiếc máu xương vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
VHP trân trọng giới thiệu chùm thơ của nhà thơ Tô Ngọc Thạch.
Trở về từ chiến tranh được hưởng chế độ bệnh binh 4/4, ông lao vào cuộc sống kinh doanh và viết như để trả nghĩa cho đời. Mỗi vần thơ của ông không chỉ là tâm tư của người trong cuộc mà còn là những nét chấm phá mở ra “cánh đồng nhận thức” tri ân đồng đội một thời không tiếc máu xương vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
VHP trân trọng giới thiệu chùm thơ của nhà thơ Tô Ngọc Thạch.
CÁNH ĐỒNG NHẬN THỨC
Đêm đêm
Chị thương binh đốt đèn trồng những ước mơ
Khoảng trống chiếm phía ngoài khung cửa
Chị bước ra từ xa xưa thời tuổi trẻ
Bên dải Trường Sơn
Lần theo đường đời đã mã hoá thời gian
Bằng những viên đá cuội mang bao kỷ niệm
Sông suối ngoằn nghèo
Lối mòn định mệnh
Kia hố bom B52
Đây vũng trầm luân đục ngầu
Nơi chị giặt vò, xả bỏ những buồn đau…
Chị thương binh dùng thân mình che ngọn đèn dầu
Mưa bão không cản được đường chị bước
Niềm tin yêu gắn với ánh đèn từ bao kiếp trước
Chị âm thầm gieo hạt mầm qua cuộc chiến tranh
Cánh đồng hiện sinh ngày một thêm xanh
Ngọn đèn dầu rung rinh trong xóm vắng
Dưới đất sâu, bao giọt máu hồng vẫn long lanh sáng
Soi lên cánh đồng phồn thực, mở mùa hoa.
Tháng 7/1999
HUYỀN THOẠI 81 NGÀY VÀ ĐÊM
Tưởng nhớ các liệt sỹ Thành Cổ, Quảng Trị.
Chiếc gậy Trường Sơn nối cơ thể
với đường mòn hành quân dẫn tôi về Thành Cổ
Chiến trận năm xưa
lá thời gian phủ che dĩ vãng thương đau
Đồng đội tôi chưa yên giấc dưới đất sâu
Đằng đẵng tháng năm
Vết thương chiến tranh khắc vào cõi nhớ
Giấc ngủ gầy còm duỗi dài hơi thở
Ngày hè đỏ lửa
Héo quắt hoàng hôn
Nỗi bâng khuâng trong kỷ niệm cuộn tròn
Ngọn gió miền Trung quất vào thịt da
nghe tên mình có ai đang gọi
Nén hương thơm khói cong như dấu hỏi?
Có tấc đất Cổ Thành nào
không nhuốm máu đồng đội tôi
Tứa máu ngón tay bới vào đạn nổ bom rơi
Tìm viên gạch vẹn nguyên khó như mò kim đáy bể
Tám mốt ngày đêm Cổ Thành
thành tượng nung trong chảo lửa
Rực sáng không gian
Muôn đớn đau giằng xé tâm can
Bao chân linh khắp chân trời phiêu bạt
Mảnh đất thiêng cho tôi câu thơ quặn thắt
Viết vào hồn mình gửi tới các anh
Tám mốt ngày đêm
Cổ Thành hắt sáng vào
huyền thoại chiến tranh.
LÚM ĐỒNG TIỀN
Con đường mòn ký ức
Vắt qua cửa nhà em
Tán bàng xanh tình duyên
Đi ngang qua nỗi nhớ
Lần ấy em vô ý
Đánh rơi lúm đồng tiền
Bất chợt anh nhặt lên
Giấu vào trong im lặng
Anh mong hoài thắc thỏm
Lần nữa em đánh rơi
Để trầu thắm đỏ môi
Cho lòng anh bão nổi
Rồi anh đi bộ đội
Bằn bặt chiến trường xa
Ngày về con đường hoa
Tìm lúm đồng tiền cũ
Bên gốc bàng trước ngõ
Nay chỉ còn mưa rơi…
Tháng 6/1974
GỠ THỜI GIAN ĐAN ÁO CHO CHỒNG
Cái rét đành hanh
lùa vào giấc ngủ triền miên
Gió thời gian thổi mòn cùn mái rạ
Căn nhà trống nép mình nơi thôn dã
Chị thắp ngọn đèn dầu
lần tìm vào quá khứ đêm đêm
Rút cô đơn từ ký ức chiến tranh
Nỗi đau nhói buốt
làm sáng lên đường kim mũi chỉ
Se vết thương thành sợi len dài thiên niên kỷ
Vò võ bên hiên
gỡ thời gian đan áo cho chồng…
Hơn ba mươi năm
từ ngày chia tay anh bên dải Trường Sơn
Bấy nhiêu lần
ngâu tháng bảy, mưa nguồn chớp bể
Chiều hoang lạnh chìm trong quạnh quẽ
Bóng chị đổ dài lệch cả miền quê
Sương thời gian nhuộm trắng mái tóc thề
Ngày nối ngày
chị ngậm ngùi gỡ từng đường tơ bối rối
Gỡ mảnh hồn mình vồi vội
Theo bóng anh đi qua
tháng ngày đặc quánh đang trôi…
Tháng 7/1999
MỘT MÌNH VÒ VÕ GIỮA MIỀN HEO MAY
Kính tặng nhà cách mạng kiên trung Triệu Thị Đỉnh(1)
Mẹ ngồi nhặt bóng vá đêm
Một mình vò võ giữa miền heo may
Chỉ thời gian chuốt trên tay
Nỗi đau giằng xé trời này rỗng không
Sợi dài như dải tang chồng
Còn bao sợi ngắn đắng lòng tang con(2)
Đường kim mũi chỉ mỏi mòn
Mẹ ngồi khâu những héo hon ở đời
Trải qua muôn trận bão người
Cũng không giết nổi nụ cười kiên trung
Gian nhà tập thể khôn cùng(3)
Liêu xiêu trước gió phập phồng chiêm bao
Mẹ ngồi nhặt những hanh hao
Đêm đêm vá lại ngọt ngào mơ xưa!
__________
1- Nhà cách mạng Triệu Thị Đỉnh (1912 – 2007), Đảng viên năm 1930, Huy hiệu 75 tuổi Đảng, hoạt động cách mạng chủ yếu ở Xứ ủy Bắc Kỳ cùng với các đ/c Lê Duẩn, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan,… Ba lần bị địch bắt và bị giam cầm, tra tấn nhiều năm, nhưng vẫn một lòng kiên trung với cách mạng.
2- Chồng là nhà cách mạng tiền bối, Liệt sỹ Nguyễn Văn Ngọ, Đảng viên 1929. Chỉ đạo trực tiếp phong trào đấu tranh nông dân Tiền Hải năm 1930. Người có công lớn trong việc thu phục gia đình Tổng đốc Vi Văn Định về với cách mạng. Bí thư kiêm Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình 1946 – 1951, hy sinh 1954, các con cũng mất cả khi chưa người nào kịp xây dựng gia đình.
3- Gia đình bà có công lớn với đất nước, nhưng bà sống một cuộc đời thanh bạch từ khi về hưu đến cuối đời tại gian nhà tập thể tầng III khu Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội.
T.N.T