
Hùng Lé ngần ngừ một chút thôi. Khi thấy Nam vừa khuất sau cây bàng trên sân đồn công an cảng, nó chợt nhận ra tình thế hiện nay của mình. Từ ngày bước chân lên tấm ván cầu con thuyền 162, Hùng luôn cảm thấy mình bị chẹt giữa hai bức tường. Ở đây, trong con thuyền là hai cánh tay gân guốc và những tia mắt sắc lạnh của Sáu Xồm, ở kia là dãy hàng rào trại giam, không còn chỗ nào khác. Trong những ngày đó, thỉnh thoảng Sáu Xồm lại hỏi nó, giọng lạnh lùng:
– Chú em ơi, thế là đến nay chú mình bật xà được bao nhiêu lần rồi nhỉ?
Bật xà có nghĩa là mở khóa cho một vụ trộm lớn. Thấy Hùng lặng im, Sáu Xồm nhắc như bắt Hùng phải nhớ:
– Chừng năm bảy vụ gì đó. Nhưng chú mình có biết không, chỉ mỗi một vụ thôi cũng đủ ra Hoành Bồ rồi.
Hoành Bồ hay đâu đó có những trại cải tạo trẻ con ăn cắp. Hùng chẳng muốn vào sống trong những trại ấy chút nào. Nó lặng im, đưa đôi mắt buồn nản thỉnh thoảng lóe lên một tia căm ghét nhìn Sáu Xồm. Thời gian cứ thế trôi qua…
Bây giờ tình thế đã đổi khác. Chẳng còn Sáu Xồm. Chỉ còn tấm biển “Đồn công an” và gian nhà thường trực nhỏ bé có một chị áo vàng đang ngồi ghi chép gì đó vào quyển sổ. Hùng thấy rằng phải rời khỏi đây ngay. Rời khỏi đây nghĩa là cả Sáu Xồm, cả nhà tù cũng biến mất. Chỉ có mỗi mình Hùng và cuộc sống tự do đang nhộn nhịp ngoài phố, những ngõ ngách mà nó thông thuộc như trong nhà của mình.
Hùng làm ra vẻ thản nhiên cho chị áo vàng khỏi chú ý rồi nó quay ngoắt, bước vào dòng người đi bộ, xe đạp đang tua tủa chuyển động trên đường. Con chim chích đã bay vào rừng xanh.
Hà Nội có 36 phố phường, còn Hải Phòng có những cái ngõ của nó. Những cái ngõ tưởng như chỉ có một đoạn ngắn thôi. Khách lạ mạnh dạn bước vào và anh ta choáng váng: Cái ngõ bỗng chia làm nhiều ngách, nhiều ngõ nhỏ khác, càng đi tới càng thấy sâu thêm, đông thêm. Cho đến nay vẫn còn những cái ngõ có tên kỳ quái không biết ra đời tự thuở nào: ngõ Cô Ba Chìa, ngõ Cái Đá, ngõ Tây bán vải… Khách lạ vẫn gặp trong những ngõ đó một bóng dáng cảnh sát áo vàng. Đó là công an hộ tịch có trách nhiệm chăm lo trị an. Nhưng dù vậy, cuộc sống trong các ngõ vẫn có một cái gì rối rắm, phức tạp hơn nhiều so với các đường phố thênh thang.
Hùng Lé lẩn vào dòng người xe, đi một quãng ngắn nữa và bước vào một cái ngõ. Mới vài bước chân nó bỗng thấy chột dạ. Đúng rồi, chính cái ngõ này, một lần Sáu Xồm đã bắt nó bật xà một gia đình công nhân. Theo Sáu Xồm cho biết, anh chủ nhà làm ba gác trong cảng. Tổ của anh chở các thứ hàng “tươi sống” như mì chính, thuốc tây… Vậy tất nhiên trong nhà anh ta có mỡ (của cải). Hùng Lé có nhiệm vụ mở khóa vào nhà xem xét. Nó chỉ nhìn thấy một bát mỡ trong chạn, một thùng mì, quần áo rách và mấy cái xoong nhôm. Đó là những thứ có giá trị nhất trong nhà. Sáu Xồm không tin. Hắn không hề tin rằng một tay tổ trưởng ba gác thường kéo sau lưng những thứ giá trị như vậy lại có thể trong sạch đến thế. Hắn bắt Hùng Lé bật xà một lần nữa, có hắn đi cùng. Hùng bực mình. Nó làm tắc khóa và thế là cả hai suýt rơi gọn vào tay một công an hộ tịch, vào quãng chín giờ sáng. Câu chuyện ấy làm Hùng phân vân. Nó có thể gặp lại người công an già hôm ấy. Bác ta đã nắm được tay Hùng, nó chối đây đẩy và òa khóc, bác ta lưỡng lự và thế là nó giật té chạy.
Nhưng dù sao thì không thể hi vọng vào sự nhân từ ấy một lần nữa.
Hùng quay ra. Nó lại bước trên đường phố, lần về phía bờ sông.
Quãng này chắc là lắm người. Thuyền bè đang bốc hàng lên xuống.
Nó có thể lẩn vào trong đám đông và may ra gặp được một cái
thuyền ra khu mỏ. Hẵng cứ ra Hòn Gai, ở đó một thời gian, tính đường về Cẩm Phả sau. Về Cẩm Phả rồi có về nhà hay không lại là chuyện khác.
Hùng ngồi xuống một hòn đá kè, giả tảng như ngồi câu. Đã thành thói quen, bao giờ nó cũng tạo cho mình hai bộ mặt. Vai nào nó định đóng đều rất đạt, cứ y như thật vậy.
Hùng bỗng phát hiện ra một điều từ nãy đến giờ không để ý: Trong tay nó vẫn còn con búp bê – mẩu gỗ bé tí mà lúc vội thằng Nam đã trao cho nó cầm hộ. Rồi nó nhớ đến chiếc ba lô nhét đầy những thứ cần thiết cho cuộc bỏ trốn, trong lòng chiếc xuồng, chắc bây giờ đang được giữ ở đồn biên phòng nào đó và được coi như là một tang vật có giá trị. Nó hoảng hốt thực sự khi thấy mình chỉ có tay không. Không tiền bạc, áo quần, nhà cửa, bạn bè… Hùng đứng dậy, cho con búp bê sang tay trái, lấy bàn tay phải vỗ vỗ vào túi quần, một tiếng lẻng xẻng khô khan sau lần vải. Chùm chìa khóa! Chùm chìa khóa vạn năng, công trình của hai năm trời ròng rã. Nó lại ngồi xuống, đặt con búp bê xuống hòn đá, rút chùm chìa khóa ra. Mỗi một cái chìa dù bằng đồng, bằng nhôm hay bằng sắt đều gợi cho Hùng những kỷ niệm khó quên, những câu chuyện làm nó nhức nhói. Đây là một trận đòn thừa sống thiếu chết của Sáu Xồm, vì Hùng loay hoay mãi mà suýt nữa Sáu Xồm bị tóm. Còn đây, chiếc chìa khóa đồng, cái mũi con này đây, ta đã bước vào một nhà do Sáu Xồm chỉ điểm, ta nhìn thấy một bà mẹ đang ngủ với mấy đứa con, ngủ say như chết sau một ngày đi làm ở cảng hay ở một nhà máy nào đó. Trông bà giống mẹ ta quá, nhà bà nghèo xác xơ, chỉ có mỗi chiếc đồng hồ báo thức trên bàn học của đám trẻ con là có giá, ta đã quay ra, nói dối Sáu Xồm và thế là một trận đòn nữa… Còn đây, “thằng bé” làm bằng nhôm, nó đã dẫn ta về nhà một lần, ta đã ngồi ngắm mẹ ta khi đang ngủ và khi bà nằm mê gọi “Hùng ơi!” thì ta hoảng hốt bỏ chạy ra ngoài… Hùng gọi tên từng chiếc chìa khóa, cuối cùng nó tháo “thằng bé” ra khỏi cái vòng sắt, cẩn thận nhét sâu vào lưng quần đùi. Nó quay quay chùm chìa khóa mấy vòng rồi bất thần quẳng xuống sông. Tội ác đang tự tử và chìm nghỉm xuống đáy, không để lại gì, kể cả một tiếng động nhỏ. Hùng đứng dậy.
Nó nắn vào lưng quần xem “thằng bé” còn trong đó nữa hay không rồi bước đi, tay vẫn còn cầm con búp bê gỗ. Vứt con búp bê xuống đống rác nào đó và thế là xong, trên người ta không còn gì của cuộc đời cũ, trừ chiếc quần đùi và cái áo rách. Nhưng vứt nó vào đâu? Hùng nhớ đến Nam Quỷnh, nhớ đến hai chị em bé Liên và con chuồn chuồn…
– Tao còn có việc với mày đây – Hùng nói với con búp bê gỗ và bước nhanh dọc bờ sông bấy giờ đã tràn ngập ánh nắng.
Một ý nghĩ xoắn xuýt đầu óc Hùng từ khi nó sực nhớ ra con búp bê. Nó muốn quay lại ngay chỗ chị em bé Liên. Nhất định phải thế – nó nghĩ – cho hết nợ.
Nhưng nó biết ngay rằng làm như vậy là mạo hiểm. Dù vậy, nó không chùn bước. Nó cảm thấy vượt qua được cuộc mạo hiểm cuối cùng này, đời nó chắc sẽ thong dong hơn. Nó sẽ có một cuộc đời khác, hoàn toàn không có chút gì giống với cuộc sống trước đây. Sáu Xồm đã bị tóm rồi. Nhất định nó sẽ sống được. Nó tin như vậy.
Hùng Lé vẫn bước thủng thẳng ven bờ sông. Lâu lắm rồi nó mới có dịp ngắm dòng sông Tam Bạc chảy qua lòng thành phố, cũng từ lâu rồi nó mới thấy mình có quyền ngắm những cảnh vật, con người, nhà cửa, thuyền bè mình thích. Trước đây, nó chỉ được phép lên bờ rong chơi vào những buổi tối. Thời gian còn lại là công việc phải làm cho Sáu Xồm.
Dãy phố bên phía Hạ Lý ửng lên dưới ánh mặt trời. Một suối mật ong chảy trên dãy nóc nhà cao. Hàng phượng lẻ loi phía cầu sắt phủ một lớp bụi than nhà máy xi măng như vừa được thay lá mới. Đứng bên này có thể nhìn thấy rõ những bông phượng sót lại của mùa Hè lộ ra sau một cơn gió rồi lại bị đống lá xanh um che khuất. Bốn con bò vừa đen vừa vàng kéo xe chở cát, bụi cát bay bay trên nóc xe.
Hùng sẽ có một con bò, một chiếc xe bò! Ước gì được thế nhỉ? Nó sẽ đi chở cát, chở than cho dân phố, sẽ nhận tiền công mua cỏ, mua cám cho bò ăn, mua một miếng đậu phụ cho mỗi bữa cơm, còn
thừa ra thì để dành được một món kha khá sẽ gửi qua bưu điện về cho mẹ. Mẹ sẽ đến nhà bưu điện nhận tiền (số tiền chắc cũng không đến nỗi ít ỏi), mẹ sung sướng lắm nhưng không hề biết ai đã gửi cho mẹ số tiền đó.
Nhưng giấc mơ qua nhanh chóng. Hùng chẳng có bò, chẳng có xe bò, trong tay chỉ còn một mẩu gỗ, bụng lại cồn cào. Nó ngồi xuống bờ đá, nghỉ một lúc. Cô bé quàng khăn đỏ mỉm cười với nó như muốn an ủi, trò chuyện với nó. Bây giờ Hùng mới nhìn kĩ cái mẩu gỗ mà thằng Nam Quỷnh kia gọi là búp bê. Hùng chưa hề cầm một vật xinh xắn như vậy. Một mẩu gỗ biết quàng khăn, lại biết cười. Những đường khắc phết sơn chạy vòng quanh rồi túa ra phía dưới như rẻ quạt, đó là cái váy. Hùng nhìn thấy một đường vòng như vết nứt ở cổ cô bé. Nó lơ đễnh cầm lấy đầu quay một vòng, cái đầu quay nhẹ nhàng. Nó quay một vòng nữa, rồi một vòng nữa, cái đầu rời ra. Bên trong mẩu gỗ là một cô bé khác, một cô bé xinh hơn, tươi tắn hơn, tất nhiên bé hơn một chút. Điều ấy làm Hùng kinh ngạc. Trí tưởng tượng của nó bị kích thích. Nó cảm thấy trong tay mình không còn mẩu gỗ nữa mà là một sinh vật đang cựa quậy, hai cô bé quàng khăn đỏ hẳn hoi.
Hùng nhẹ nhàng đặt cô gái lớn xuống và lại quay đầu cô gái nhỏ. Cái đầu rời ra sau mấy vòng quay và bên trong lại có một cô bé khác, xinh hơn, nhỏ hơn cô bé kia. Hùng vã mồ hôi trán, nó thấy như mấy cô bé đang cười nhạo mình. Tay nó run lật bật. Nhưng nó vẫn tiếp tục quay cái đầu nhỏ nhắn kia mấy vòng và lại rút ra một cô bé quàng khăn nữa. Vậy là trên tay Hùng đã có bốn cô bé, bốn chị em sàn sàn tuổi nhau. Nó xếp cả bốn cô lên một hòn đá bằng phẳng nhất quanh chỗ ngồi rồi lặng lẽ ngắm từng cô một. Nó cảm thấy cô chị là cô gái có vẻ tần tảo, lam lũ và đảm đang nhất bọn. Bởi vì cô chị ở ngoài, bao bọc các em, chị phải chịu nắng gió, va chạm, sây sát. Điều ấy thật đơn giản biết bao.
Hùng thở dài. Nó lắp mấy cô bé vào chỗ cũ. Nhưng nửa chừng, nó chợt hi vọng. Hãy mở cô út ra, biết đâu lại còn một cô nho nhỏ hơn
trong? Nó run run quay đầu cô bé út. Không còn cô bé nào nữa. Nhưng một tờ giấy rơi ra. Một băng giấy nhỏ, trên có hàng chữ viết
nắn nót: Chúc các con hạnh phúc, hãy ngoan như những em bé gái này… Mẹ . Hùng chợt hiểu. Đây là chữ viết của mẹ bé Liên, chắc là để một ngày nào đó, lúc hai đứa bé biết đọc, chúng sẽ phát hiện ra tờ giấy và lời dặn dò của mẹ.
Hùng quấn cẩn thận tờ giấy vào ruột cô bé út, lắp mấy cô lại như cũ rồi đứng lên. Nó thấy hết đói, bước đi nhanh cho hết quãng đường bờ sông rồi rẽ vào một phố nhỏ. Nó biết rõ, ở quãng giữa phố này, bên cạnh một ngôi nhà ba tầng đổ nát vì bom Mỹ cách đây bảy, tám năm, có một cái ngõ hẹp nhưng dài và ngoằn ngoèo. Từ giữa ngõ này, chui qua một lỗ hổng của bức tường chắn, có thể ra phố Q, gần ngay ngôi nhà nó định đến. Nó quyết định đến ngôi nhà kia bằng lối này, bởi vì, nếu giữa đường bị phát hiện và đuổi bắt, nó sẽ dễ dàng mất hút trong cái ngõ vừa chật chội vừa tối tăm kia. Ở khu vực này người ta đang mở công trường sửa lại nhà bị bom tàn phá, dân cư được tạm dời ra nhà cao tầng ngoại ô, Hùng sẽ ít phải gặp những người có thể nhận ra nó.
Và bây giờ Hùng đã tìm ra cái lỗ hổng nhỏ giữa bức tường. Hùng chống hai tay xuống đất, cho hai chân vào cái lỗ rồi nhẹ nhàng đẩy người sang. Một hai giây sau, nó đã ở bên kia bức tường. Phía bên này quang cảnh còn vắng vẻ hơn. Một đống gạch vụn đổ nát nằm dưới chân những cột bê tông cao với những cái dằng ngang, dằng chéo rối rắm. Trên một mảng tường còn sót lại, có hàng chữ kẻ bằng son đỏ: “Nhà đổ, nguy hiểm chết người!”, bên cạnh hàng chữ là hình vẽ một cái đầu lâu với hai ống xương bắt chéo. Hùng mỉm cười nhìn cái đầu lâu, nó phác một cử chỉ chế nhạo những hốc xương gớm ghiếc kia rồi ngồi xuống ngay bên cạnh để thử. Ở đây thật vắng vẻ và yên tĩnh. Cả những tiếng xe ô tô chạy ngoài phố lớn cũng rơi rụng hết bên kia những khung nhà cao và các đống gạch vụn. Sau những phút căng thẳng chui qua bức tường, nó lại thấy đói, nhưng tìm đâu ra cái ăn. “Chà, chuột ngày bao giờ cũng đói!” – nó lẩm bẩm, bực bội nhưng lại yên tâm vì cho đến bây giờ vẫn chưa ai nhìn thấy nó. Nó có thể ngồi một lúc, tính kế, lập mưu cho mất đứt ngày hôm nay cũng được. Một ngày không ăn thì đã sao. Nó đã từng qua một đôi lần như vậy rồi. Đói một chút nhưng khi có gì ních vào bụng thì lại thấy khỏe khoắn ngay. Nó nằm xuống, hai tay đặt dưới đầu và khe khẽ hát: Bé bé bằng gang… Hát xong, nó mỉm cười.
Nhưng nó không hề chú ý đến một khuôn mặt ló ra từ cái lỗ hổng trên gác ba ngôi nhà đổ. Một khuôn mặt hốc hác, có đôi mắt sâu bị lấp dưới hai vệt lông mày rậm. Một khuôn mặt cú mèo. Ví von này cũng không lấy gì làm quá đáng, bởi vì, tận trên gác ba ngôi nhà đổ như vậy, phải leo qua dãy cầu thang sứt mẻ lòi cả dàn cốt thép bên trong ra, chỉ có thể có những con cú trú ngụ mà thôi. Nhưng đây quả thực là khuôn mặt người. Từ khi, do sự tình cờ, đôi mắt sâu với cặp lông mày rậm ấy nhìn thấy hai bàn chân của Hùng Lé thò ra ngoài lỗ hổng bức tường thì hầu như chúng không rời thằng bé ra nữa.
Hùng Lé đứng dậy, lần theo lối đi mọc đầy cỏ tìm đến dãy phố cũ. Khuôn mặt cú kia thụt vào và lát sau, trên dãy cầu thang đổ hiện ra một người đàn ông trạc năm mươi tuổi. Ông ta mặc áo sơ mi cổ bẻ, ngắn tay, bên dưới là chiếc quần ka ki vàng khè cũ kĩ. Ông ta tụt nhanh xuống, nấp sau một cái cột nhìn dõi theo Hùng Lé. Như vậy là giữa Hùng Lé và người đàn ông nọ đã có một sợi dây, hay như người ta thường nói: Hùng Lé đã có một cái đuôi mà nó không hề hay biết.
Khi Hùng bước ra đường thì “cái đuôi” nấp vào chỗ Hùng đứng hồi nãy. Từ đây, người đàn ông yên trí nhìn theo thằng bé. Đường phố khá rộng, ông ta có thể theo dõi Hùng trong một khoảng cách dài mà không sợ mất hút con mồi.
Hùng bước mấy chục bước nữa. Nó đi qua khu nhà tập thể mang số 154, nơi xảy ra vụ trộm cách đây mấy hôm. Lối đi vào cầu thang vắng người, dài hun hút. Hùng liếc nhanh lên các tầng trên, các cửa sổ đều mở, nhưng chẳng có gì chứng tỏ có người ở bên trong. Nó dấn thêm mấy bước rồi quay trở lại. “Cái đuôi” từ nãy vẫn theo sát từng bước chân của nó, vội tụt vào trong ngõ. Một chốc sau, Hùng lại trở v chỗ cũ, nơi gặp nhau giữa cái ngõ dẫn vào ngôi nhà đổ và đường phố. Người đàn ông đã đứng lùi hẳn về phía trong. Ông ta đang giả vờ sắp xếp lại mấy hòn gạch.
Đầu óc Hùng căng thẳng như trong bất kỳ hoàn cảnh tương tự nào, khi phải mạo hiểm, phải trông chờ vào sự may rủi nhiều hơn là khôn ngoan. Trở về đây sau vụ trộm có mấy ngày là chẳng khôn ngoan chút nào, nhưng nó nghĩ, dù có gặp rủi thì đây cũng là lần đầu tiên nó bị rủi ro vì làm một việc tốt đẹp. Nghĩ thế, nó rời chỗ đứng, lại bước nhanh đến ngôi nhà. Người đàn ông – cái đuôi – thấy nó đi khuất, liền chạy nhanh ra đầu ngõ, nghiêng người dõi theo. Đến lúc thấy Hùng bước vào lối lên cầu thang ngôi nhà, ông ta mỉm cười.
Hùng đi nhanh lên cầu thang dẫn đến gác hai. Nó mạnh dạn bước lên mấy bước rồi quyết định rẽ phải. Chỉ thêm mấy bước nữa thôi là nó đã có thể đứng bên cửa sổ nhà bé Liên, nó sẽ liệng con búp bê gỗ qua chấn song sắt. Thế là xong, nhưng nó chưa kịp làm thế. Một tiếng the thé như lưỡi dao rít phía sau nó:
– Ôi, làng nước ơi, thằng trộm!
Hùng phản xạ khá nhanh. Nó quay người lại, chạy như biến xuống cầu thang. Phía sau, tiếng người la hét nhiều thêm. Lúc bấy giờ, Hùng mới sực nhớ đến người đàn bà mà thằng Nam gọi là bác Nga hai đứa đã gặp ở cầu thang trong lần đầu tiên đến đây. Vừa chạy vừa liếc nhìn lại phía sau, Hùng thấy bà ta đang đuổi theo mình, miệng há hốc kêu không thành tiếng. Phía sau có vài người nữa, họ cũng chạy cũng la, nhưng chẳng ai hiểu điều gì xảy ra. Còn người đi đường thì chắc chắn là không hiểu gì hết. Họ không biết ai đang đuổi theo ai, vì sao lại đuổi và đuổi về hướng nào.
Tất nhiên Hùng Lé chạy vào cái ngõ có ngôi nhà đổ. Rẽ vào đây rồi, nó bình tĩnh hẳn lên. Bởi vì, vài chục bước nữa là đến chân tường, nó sẽ nhẹ nhàng chui qua “cái mõm” là thoát. Nhưng một người đàn ông đã đứng chắn mất cái lỗ chui. Ông ta khoanh tay, mỉm cười và điềm nhiên bảo Hùng:
– Lên cầu thang, vào buồng ta ở mà trốn, con!
Giọng ông ta dịu dàng nhưng kiên quyết, Hùng liếc qua bốn phía, nó chỉ thấy con đường duy nhất có thể đặt chân là lên cầu thang, dù đó là một cái cầu thang đổ. Nó trao mình cho số phận, chạy nhanh lên những miếng bê tông lởm chởm. Người đàn ông nhìn theo, lại mỉm cười.
Từ trên tầng hai, Hùng nhìn qua cửa sổ. Bà Nga, theo sau là mấy người đàn bà nữa, chạy đến chỗ người đàn ông. Sau cùng là Nam Quỷnh, thằng bé có lẽ vừa ngủ dậy ngơ ngác như gián ngày. Bà Nga hỏi người đàn ông:
– Bác có thấy thằng bé nào chạy vào đây không? Người đàn ông thản nhiên chỉ cái lỗ dưới chân tường:
– Đây, chuột vào hang rồi, vừa chui qua đây. Có việc gì vậy bà?
– Thằng trộm, đúng là thằng bé đi với lũ trộm vào nhà 154 hôm trước – Bà ta chỉ Nam – Bạn quý của ông mãnh này đây.
Hùng thấy Nam không nói gì, chỉ lắc đầu, vẻ ái ngại. Ôi, giá như Hùng có thể chạy xuống gặp nó, nói với nó những điều cần nói. Nhưng Hùng đành rời khung cửa ngồi lên một tấm phản trong gian buồng vừa trống vừa bề bộn, bẩn thỉu. Trên một cái bàn ba chân có hai thanh bánh mì. Hùng thấy đói hơn vì màu vàng rộm của những chiếc bánh cứ đập vào mắt nó. Nhưng nó quay mặt, cố tình quên những cái bánh hấp dẫn. Nó nghĩ: Đây không phải là bánh của mình. Vả lại, ngày hôm nay nó định nhịn đói. Không nhịn làm sao được khi trong tay chẳng có hào có xu nào, còn trong đầu chỉ có một ý nghĩ: Ta sẽ không ăn cắp nữa.
Người đàn ông bước vào. Ông ta đặt tay lên vai Hùng:
– Một quả điếc hả? Không may nhưng mà là may đấy, con ạ. Vì… con đã được gặp ta.
Hùng nhìn ông ta. Quần áo của người đàn ông bốc lên mùi ngai ngái chua chua của mồ hôi và cáu ghét. Có lẽ ông ta tắm giặt từ năm ngoái hay sao ấy.
– Ta đã cứu con, phải thế không? Con là bụi, một hạt bụi, nhưng từ nay con không là bụi nữa, con sẽ là con của ta. Đây là nhà của con.
Bánh của con đó, ăn đi!
Ông là ai? Hùng muốn hỏi nhưng nó sợ đôi mắt người đàn ông. Nó im lặng, cúi đầu nhìn xuống đất.