Chùm thơ dự thi số 46, có sự góp mặt của ba tác giả họ Lê, họ mang đến chút hương quê man mác rưng rưng thương nhớ với những hình ảnh thân quen vùng cư dân Bắc bộ qua chùm của Lê Huyền. Vẫn là quê hương con người và cảnh vật, nhưng Lê Văn Hảo có cái nhìn khá thấu về nỗi cô đơn, sự đớn đau neo bám trong tâm hồn và điều linh diệu kết tụ lại từ cha và mẹ. Lê Vũ Trường Giang (TP.Huế) với cách diễn ngôn gợi sự khác lạ, nhưng vẫn là những cảm nhận ứa nghẹn của trái tim về cuộc đời về thế sự.
vanhaiphong trân trọng giới thiệu.
Lê Huyền (Hòa Bình)
CỔNG LÀNG
Cổng làng phủ mốc hoa cau
Sớm mưa trưa nắng trước sau gió lùa
Đêm khuya thảng thốt chuông chùa
Cổng làng giục giã trống mùa canh đê.
Nắng trưa xém mặt lá đề
Gió đâu hây hẩy cổng quê ta ngồi
Nón che chỉ được em thôi
Cổng làng che cả một hồi nắng to.
Trời xa
Cánh vạc
Cánh cò
Miết mê, miết mải
Quay dò
Cổng quê…
TRÁI MÙA
Nắng vàng vẫn trải hanh heo
Sương đêm ướt lạnh xóm nghèo ven sông
Phượng già ngủ giữa phố đông
Ao sen lác đác nước đồng mặn chua
Đằng xa vọng tiếng chuông chùa
Lạc trong gió thoảng trái mùa , hạ ơi…
NGƯỜI LÀNG
Người làng
Gọi : Biểu
Thưa : Gì
Không quen cũng dạ chi chi cũng mừng
Giận thì dẫm bóng sau lưng
Chửi như đánh dậm giữa chừng lại thôi.
Biết nhau từ thủa nằm nôi
Chia từ củ sắn, oản , xôi lễ chùa
Nhà tranh , vách đất , gió lùa
Càng thương càng nhớ những mùa heo may…
Lê Văn Hảo( Phú Yên)
QUÊ HƯƠNG
Quê hương eo óc miền trung
Mưa dầm lũ quét nắng nung mặt người
Bát cơm đội đá vá trời
Úp mặt xuống đất ru lời sắn khoai
Hồn treo con sóng chơi vơi
Biển xanh tôm cá hẹp hòi vòng tay
cháu con cơm áo lất lay
Sông quê bến lở mà cay đắng lòng
Mẹ cha tay tập tầm vong
Tay không tay có điếm đong cái nghèo
Nợ nần năm tháng đi theo
Mẹ tôi lặn lội gieo neo xó người
Trời tròn đất méo con ơi!
Nón mê che mặt khóc đời bể dâu
Ba hồn chín vía tìm nhau
Nghe câu dí thá mà đau đớn lòng
BẢY SẮC CẦU VÒNG
Tôi viết bài thơ phía hoàng hôn
Và cầm sợi tóc trổ màu
Cấy vào nhịp thời gian
cha tôi
lão nông dân đen trạy
Bám chắc mỏ cày
Vỡ đất
Lo vụ mùa
Chạm mặt dòng sông
Bên nào cũng lở
Người đàn bà
Mẹ tôi
Chèo mủng đêm đông đặc quánh
Nhìn cánh bèo
Mơ ngôi nhà
Bập bềnh tiếng trẻ
Loang chảy thời gian
Đời gọng vó nuôi con èo uột
Hun lên bóng tối mùa trăng
Tảo tần
Kế tự
Rớt xuống bàn chân giọt mồ hôi hạnh phúc
Ánh sáng đời mẹ
Trôi trên môi bảy sắc cầu vòng
Mang hình lập thể
Giao cảm hai chiều
Tận cùng
…con
GÁC TRỌ
Không gian rộng
Chùng trong lòng lữ khách
Đêm trắng lòng vỡ mắt một mùa yêu
Tôi gom lại những rẻo tình lưu lạc
Ảo ảnh ngày sau trả mộng vô thường
Bóng nguyệt xưa
Bốn mùa rêu phủ mặt
Chợ phong tình thấm lạnh một bờ môi
Duyên tiền định ai vây đầm Dạ Trạch
Rót vai gầy gió lạnh tháng ngày đau
Tôi lữ khách
Em cũng người viễn xứ
Hai quả tim chắp chới một cung đời
Em chăn ấm tôi nghiêng lòng thấm lạnh
Em lụa là tôi gác trọ đìu hiu
Em nguyệt thực
Hay tình tôi bội thực
Hững hờ khép lạnh một bàn tay
Viên đá trọ chiều nay tôi lăn mãi
Cát bụi nào trầm tích trái tim côi
Đời đơn lẻ
Một loài chim di trú
Vạc gọi chiều khản giọng một mùa bay
Chung rượu đắng đợi chờ trong đêm tối
Ai tiển ta lạc bóng một người đi
Lê Vũ Trường Giang (TP.Huế)
Chết từ chiêm bao
em chèn giấc mơ phía sau núi đồi khuyết tuổi
mọc ngược vầng dương rớt xuống đồng khô
những con ngựa đôi chân dài nghìn dặm
cất vó buồn bát ngát cỏ hoang
dăm ngôi nhà biết đi bằng đôi chân khẳng khiu vẹt gỗ
mặc cho những chiếc áo khô mấy xuân tàn
mặt tôi nở bung gối trắng
mây bay qua đầu lịch xịch chiều nay
dát lên hình hài cánh đồng gió
gương mặt nửa mùa xanh lá cỏ
con đường mềm vắt ngang mắt em
cây đỏ như máu
ngôn ngữ nín câm chực nổ
chữ chua cay tóc thề xõa chảy
rũ rượi tôi cạn gió tuổi buồn
mặc nguồn cơn lên đêm điên dại
…
nỗi cô đơn khoét vách đi hoang
Kinh đắng
khi thần Vâyu đặt bàn tay gầy lên ngọn tháp rượi hồn xứ sở
gạch cũ thầm thỉ dưới bóng hoa
chuyện những người lạc xứ không về
tìm đâu bóng nhạn chao nghiêng bờ khuyết sử
Bố Gia La[1]
hạt cây Kraik tha hương
nàng ngồi đây dòng kinh lạnh buốt
tiếng mõ già lả tả mùa thu
Baranâng lạc nhịp đồi hoang
Dauhrohnưk[2] chết thiêng giấc ngủ
xác hoa tàn thần Vâyu có mang về
kinh đắng chảy tràn cả thu tang
Kinh cầu cho tiếng thở dài
dòng trường ca chết bên sông
lưỡi buông thườn thượt
bên lời hát cánh buồm
những quầng trời đỏ môi phượng vĩ
mùa hè như điên
giãy nảy bạt ngàn linh hồn vao vất
những quả tim tẩm mực
chất đầy trong sọt rác
và ta nhặt từ đó
chiếc khuyên lưỡi hippi
không thấy chiếc cầu rơi tỏm xuống dòng sông chết lặng
bởi vũ điệu của loài chim sắt háo máu
giẫm đạp lên ngực đồi phế tích
không thấy cả con đường đâm ngang ngực loài bội phản
để những chiếc lưỡi tự do
đo chiều dài chân lí
chúng hoảng loạn tìm xuân
gió chướng tràn qua phố
hàng cây giật mình thức giấc
trong nấm mồ chung
mặt người thức huyên thuyên trần tình
về phút giây cuối cùng của ánh mặt trời
rục muỗng rèm mi
giá như có một chiếc chổi mầu nhiệm
quét sạch những chiến đoàn ra tận đại dương
sẽ không có tiếng súng
trộn lẫn tiếng pháo giao thừa
khi nói lên điều này
người đàn bà cuối cùng của làng góa
thành ma thuyền nhân bể sâu Thái Bình
[1] Bố Gia La là một vương phi của Champa bị vua Trần Thái Tông (1225-1258) cướp về năm 1252, từ đó lưu lạc nơi đất khách.
[2] Điệu hát ru Champa