“Thưa ông, tôi nghĩ ông đã lầm trong khi cho rằng mất thì giờ với việc thực tập súng bằng một viên đạn. Trong cuộc sống lính tráng của chúng ta, một lời nói khinh xuất thường được dẫn tới một cuộc thanh toán giữa bạn hữu. Trường hợp đó, phải là một tay súng giỏi, người ta mới có thể tạo được sự kính trọng cho những kẻ ưa thích đưa ra những câu hỏi vô ích.”.. Bản dịch của Trần San)
“Thưa ông, tôi nghĩ ông đã lầm trong khi cho rằng mất thì giờ với việc thực tập súng bằng một viên đạn. Trong cuộc sống lính tráng của chúng ta, một lời nói khinh xuất thường được dẫn tới một cuộc thanh toán giữa bạn hữu. Trường hợp đó, phải là một tay súng giỏi, người ta mới có thể tạo được sự kính trọng cho những kẻ ưa thích đưa ra những câu hỏi vô ích.” Bản dịch của Trần San)
Vào lúc câu chuyện này xảy ra, trung đoàn chúng tôi đang đồn trú tại Valins, một làng nhỏ bẩn thỉu nơi biên phòng nước Áo. Hôm đó là vào ngày 4 tháng 5 năm 182… Tôi với vài sỹ quan khác được Andrew Michaelovitch, vị sỹ quan phụ tá trung đoàn mời dùng bữa để mừng sinh nhật ông. Khi ấy, chúng tôi đang thảo luận những vấn đề khác nhau của đơn vị, bỗng nghe Thiếu úy Stamm hỏi Michaelovitch:
“Anh có thể cho chúng tôi biết Đại Tá đã nói gì với anh sáng hôm nay mà có vẻ hăm hở vậy?”
Michaelovitch trả lời:
“Một tân sỹ quan sẽ được bổ nhiệm vào chức vụ đại úy”.
“Tên anh ta là gì?”, hai ba giọng cùng hỏi một lúc.
“Trung úy Zodomirski, người đã hứa hôn với nàng con gái xinh đẹp Marina Ravenski”.
“Khi nào anh ta đến đây?”, Thiếu Tá Belayef hỏi.
“Anh ấy đến rồi. Tôi đã được giới thiệu tại nhà Đại Tá. Anh ấy tỏ ra rất lo ngại trong việc làm quen với các anh, nhưng tôi cũng đã mời anh ấy đến dùng cơm tối với chúng ta.”
Quay sang tôi, Michaelovitch tiếp:
“Đại úy ạ, tôi nhớ ra anh cũng biết anh ta. Có phải hai người từng ở chung trung đoàn tại St. Pétersbourg không?”
“Đúng thế”, tôi đáp “Chúng tôi học chung với nhau. Anh ta là một chàng tuổi trẻ can đảm, đẹp trai, được bạn hữu yêu mến trọng đãi, nhưng có một chút khí chất kiêu hãnh và khó chịu”.
Thiếu úy Stamm nói:
“Cô Ravenski cho tôi hay rằng anh ta là một tay súng tài tình. Để thử xem, ở đây anh ta có phải là một tay súng giỏi không? Đấu súng là việc rất quen thuộc với chúng ta. Vâng, ông sẽ được tiếp đón, ông Zodomirski ạ! Tuy nhiên, với cái khí chất nóng nảy, ông sẽ phải cẩn thận trước mặt tôi, hoặc là tôi sẽ tự đảm nhiệm việc làm cho nguội cái khí chất ấy đi.”
Vừa tuyên bố những lời này, Stamm vừa phát ra một cái cười rõ ràng nhạo báng. Cornet Naletoff hỏi:
“Làm sao mà anh ta lại từ bỏ Đội Vệ Binh? Có phải anh ta bị phá sản không?”
Stamm trả lời:
“Tôi được kể là anh ta vừa thừa hưởng của một người cô già 20.000 rúp. Nhưng vô phúc thay! Anh ta đang bị lao.”
Vị sỹ quan phụ tá đứng dậy:
“Nào các bạn, hãy dời qua phòng khách chơi bài đi. Trong khi đó, Koloff sẽ lo bữa ăn cho chúng mình”.
Chúng tôi đánh vài ván, và Stamm, người không được giàu có gì, lại đang thua 60 rúp. Bỗng tiếng Koloff la to:
“Đại úy Zodomirski đến!
Michaelovitch nhảy ra khỏi ghế:
“A! Sau cùng bạn cũng tới! Xin đón chào!”
Rồi, xoay lại phía chúng tôi, Michaelovitch giới thiệu:
“Đại úy Zodomirski ạ, đây là những người bạn mới của anh. Tất cả đều là các chiến sỹ tốt bụng và can đảm!”
Zodomirski lên tiếng:
“Thưa các bạn, tôi rất hân hạnh được đổi về trung đoàn này. Đó là ước ao lớn nhất của tôi trước nay. Và nếu như tôi được đón chào, như các bạn đã nói một cách lịch sự, tôi sẽ phải là kẻ may mắn nhất đời”.
“A Đại úy!” Zodomirski tiếp, quay về phía tôi, giơ cả hai tay “Chúng ta lại gặp nhau ở đây. Hẳn anh không quên người bạn cũ này chứ?”
Trong khi Zodomirski tươi cười thốt ra những lời này thì Stamm, người mà Zodomirski đang đứng xây lưng lại, phóng vào Zodomirski một cái nhìn đầy ghét hận. Stamm không được lòng ai trong trung đoàn; bản chất lạnh lùng đã khiến hắn không tạo được tình bạn với bất cứ kẻ nào trong chúng tôi. Tôi không thể hiểu sự thù ghét lộ liễu phô bày nơi hắn đối với Zodomirski, người mà tôi tin chắc rằng hắn chưa từng bao giờ gặp trước đó.
Có ai đưa mời Zodomirski một điếu xì gà. Chàng nhận lấy, mồi lửa từ một sỹ quan đứng gần và bắt đầu trò chuyện vui vẻ với những người bạn mới. Thiếu tá Belayef hỏi chàng:
“Anh lưu lại đây có lâu không?”
“Vâng, thưa Thiếu Tá”, Zodomirski đáp. “Tôi ao ước được ở lại với trung đoàn lâu chừng nào, tốt chừng ấy”.
Trong khi nói những lời này, chàng cúi chào một vòng tất cả chúng tôi. Và tiếp:
“Tôi vừa tậu được một căn gần nhà người bạn cũ Ravenski tôi quen ở St. Pétersbourg. Tôi có vài con ngựa và một cái bia bắn súng. Tại đây, tôi sẽ được yên tĩnh như một nhà ẩn dật và hạnh phúc như một ông vua. Đó là cuộc sống thích hợp với tôi!”
“Ha! Và ông sẽ thực tập việc bắn súng!” Stamm bật nói bằng giọng rất lạ, kèm theo tiếng cười mỉa mai đến nỗi Zodomirski phải ngạc nhiên quay nhìn hắn.
“Vâng, đó là thói quen của tôi, mỗi buổi sáng tôi phải bắn 12 phát đạn”, Zodomirski trả lời.
“Phải chăng ông rất yêu thích việc ấy?” giọng Stamm lạnh băng. Hắn thêm: “Tôi không thấy có gì là hữu ích trong việc thực tập súng, trừ phi để săn thú”.
Khuôn mặt xanh lướt của Zodomirski chợt bừng lên tia đỏ bất ngờ. Chàng quay hẳn người về phía Stamm, đáp bằng một giọng trầm nhưng cương quyết:
“Thưa ông, tôi nghĩ ông đã lầm trong khi cho rằng mất thì giờ với việc thực tập súng bằng một viên đạn. Trong cuộc sống lính tráng của chúng ta, một lời nói khinh xuất thường được dẫn tới một cuộc thanh toán giữa bạn hữu. Trường hợp đó, phải là một tay súng giỏi, người ta mới có thể tạo được sự kính trọng cho những kẻ ưa thích đưa ra những câu hỏi vô ích.”
Stamm kêu lên:
“Ồ! Đó không phải là lý do, Đại úy ạ. Trong các cuộc đấu súng cũng như mọi việc khác, phải có chút ít may rủi. Tôi vẫn duy trì ý nghĩ thứ nhất của tôi, và thêm rằng một người đáng kính phải là người không nên quá cẩn trọng”.
“Lý do?” Zodomirski hỏi.
Stamm đáp:
“Tôi sẽ giải thích cho ông hiểu. Đại úy có đánh bài không?”
“Sao ông hỏi vậy?”
“Tôi sẽ cố giải thích rõ hơn để chúng ta cùng hiểu. Tất cả mọi người đều biết rằng có những tay chơi bài rất giỏi; trong khi xáo bài, với xảo thuật riêng, kẻ ấy có thể tự biến mình thành tinh thông để thắng mọi ván bài. Riêng tôi thì nhận thấy chẳng có gì khác biệt giữa một kẻ cướp tiền người khác với một kẻ cướp chính mạng sống của hắn.”
Rồi như để khuất lấp đi sự xấc láo trong lời bình phẩm của hắn, Stamm thêm:
“Tôi không nói điều này với ông, Đại úy ạ, tôi chỉ nói các trường hợp chung chung”.
Zodomirski kêu lên:
“Thưa ông, thế là quá đủ! Tôi sẽ xin Đại úy Alexis Stephanovitch dàn xếp việc này với ông.” Và chàng quay sang tôi: “Bạn sẽ không từ chối lời yêu cầu này của tôi chứ?”
Stamm tức thì trả lời:
“Đúng như thế, thưa Đại úy. Ông đã nói với chúng tôi rằng ông thực tập bắn súng mỗi ngày, trong khi tôi chỉ thực tập vào trước ngày tôi phải quyết đấu. Chúng ta hãy cùng nhau cân bằng sự may rủi. Tôi sẽ bố trí chi tiết với đại úy Stephanovitch”.
Xong, hắn đứng lên, quay mặt về vị chủ nhân:
“Tạm biệt Michaelovitch, tôi sẽ đến ăn ở nhà đại tá.”
Một sự im lặng nặng nề rơi xuống trong khi cuộc đấu khẩu xảy ra; nhưng ngay sau khi Stamm vừa khuất bóng, đại úy Pravdine, một viên sỹ quan lớn tuổi, nói với tất cả:
“Chúng ta không thể để cho họ đấu súng với nhau.”
Zodomirski thân mật nắm lấy cánh tay ông:
“Đại úy, tôi là một người mới, không ai trong số các anh biết rõ tôi. Nhưng sự việc đã thế, để bảo tồn danh dự, tôi không thể thông qua cuộc cãi nhau này mà không thách đấu với vị sỹ quan kia. Tôi không biết đã làm gì phiền lòng ông ta, nhưng rõ ràng ông ta đã có điều gì đó giận dữ với tôi”.
Cornet Naletoff bày tỏ:
“Sự thật là Stamm ganh tỵ với anh, Zodomirski ạ. Ai cũng biết rằng hắn yêu cô Ravenski”.
“Quả nhiên, điều ấy giải thích tất cả,” Zodomirski gật. “Thưa các bạn, tận đáy lòng, tôi xin cảm ơn sự tử tế các bạn đã dành cho tôi trong việc này”.
Michaelovitch la lớn:
“Bây giờ hãy dùng bữa đã. Xin ngồi chỗ nào tùy ý. Koloff ơi, mang súp ra đây!”
Tất cả mọi người đều nhộn nhịp. Stamm dường như bị quên lãng ngay; chỉ mỗi Zodomirski vẫn còn vấn vương chút buồn trên mặt. Trông chàng có vẻ say say, cơ hồ cảm động với sự ân cần đặc biệt này, và ngỏ lời cám ơn các vị sỹ quan với giọng nói buồn bã.
Sau bữa ăn, chàng nói với tôi:
“Stephanovitch ạ, bởi lẽ ông Stamm biết bạn được tôi giao phó mọi chuyện, và ông ấy cũng đã thừa nhận như thế, vậy xin bạn hãy đến gặp và sắp xếp mọi thứ với ông ấy; chấp nhận tất cả điều kiện ông ấy đưa ra; rồi trở lại gặp Đại úy Pravdine và tôi tại phòng tôi. Ai đến trước sẽ chờ kẻ đến sau. Bây giờ, tôi phải đi đến nhà cô Ravenski.”
Vài giọng cất lên:
“Nhưng anh phải cho chúng tôi biết giờ quyết đấu chứ?”
“Hẳn nhiên, thưa các bạn. Hãy đến và nói lời vĩnh biệt với một trong hai chúng tôi.”
Mọi người giải tán. Mỗi vị sỹ quan đều bắt tay Zodomirski như thể với một người bạn từ lâu quen biết.
II
Stamm đang đợi khi tôi đến nhà hắn. Điều kiện hắn đưa ra như sau: Hai cây gươm sẽ được cắm ở hai phía riêng rẻ, cách nhau chỉ một bước bằng 6 inches. Mỗi đấu thủ đứng đằng sau một cây gươm, khoảng cách được tính bằng một sải tay duỗi thẳng. Tiếng súng cả hai cùng nổ khi nghe hô chữ “ba”. Một viên đạn sẽ được lắp vào nòng một cây súng duy nhất. Cây còn lại chỉ có một đầu đạn.
Tôi cố gắng tìm một phương thức khác cho cuộc đấu, nhưng vô hiệu. Stamm nói:
“Ông Zodomirski không phải nạn nhân mà là đối phương của tôi. Ông ta hoặc phải đấu như tôi đề nghị, hoặc tôi sẽ bỏ cuộc; trong trường hợp đó, tôi sẽ tự chứng minh được rằng ông Zodomirski chỉ tỏ ra can đảm khi ông ấy biết chắc là mình được an toàn”.
Bởi vì Zodomirski đã dặn tôi là “hãy chấp nhận tất cả điều kiện ông Stamm đưa ra,” vì thế tôi bằng lòng chuyển giao lời của Stamm cho Zodomirski.
Khi tôi đến nhà Zodomirski thì chàng chưa về. Tôi tò mò nhìn quanh. Cảnh sắc được trang hoàng trong cách thức giàu sang nhưng đơn giản và rất thẩm mỹ. Tôi kéo cái ghế gần hành lang, nhìn ra bãi đất trống. Một cơn giông đang kéo đến; vài giọt mưa rơi xuống, tiếng sấm rền vang.
Vào lúc ấy cánh cửa mở ra. Zodomirski và Pravdine cùng bước vào. Tôi chào họ.
“Chúng tôi về trễ nhưng đó là điều chẳng đặng đừng, đại úy ạ,” Zodomirksi nói. Chàng tiếp: “Ông Stamm bảo sao?”
Tôi kể chàng nghe những điều kiện của Stamm. Khi tôi dứt lời, một nụ cười buồn nở ra trên môi chàng. Chàng đưa tay lên ngang trán, đôi mắt lấp lánh với vẻ bồn chồn, miệng thì thầm:
“Tôi đã đoán trước điều này. Có phải anh cũng chấp nhận?”
“Chẳng phải là anh đã cho tôi cái quyền ấy?”
“Đương nhiên!”, chàng đáp.
Zodomirski ném mình vào chiếc ghế cạnh cái bàn, đối diện cửa ra vào. Pravdine ngồi gần cửa sổ, và tôi gần lò sưởi. Một linh cảm đè nặng đầu óc chúng tôi. Sự im lặng chết chóc bao trùm mọi thứ.
Bỗng dưng cánh cửa mở ra. Một phụ nữ quấn mình trong chiếc áo choàng ướt sũng nước mưa, cái mũ trùm che kín mặt, xuất hiện trước mặt chúng tôi. Nàng giở nón và chúng tôi nhận ra cô Ravenski!
Pravdine và tôi đứng bất động trong sự ngạc nhiên cao độ. Zodomirski nhẩy xổ về phía nàng:
“Chúa ơi! Gì vậy? Sao em lại đến đây?”
“Sao em lại đến đây hở George?” nàng la lớn. “Do chính bởi vì anh đã nói ban nãy tại nhà em: ’Đêm nay có lẽ là đêm cuối cùng của đời anh’. Tại sao em đến đây? Em đến để thốt lời vĩnh biệt anh. Chúng mình vừa thấy nhau hai giờ trước đây mà không một lời nào nói đến ngày mai. Như thế có đúng không, George?”
“Nhưng đâu phải chỉ mình anh ở đây”, Zodomirski đáp. “Em nghĩ xem, tiếng tăm em…”
“Chẳng phải anh là tất cả của em sao, George? Và ngay giây phút như lúc này, còn gì đáng lưu tâm mà giữ gìn hơn nữa?”
Nàng vòng tay quanh cổ chàng, dúi đầu vào ngực chàng. Pravdine và tôi dợm mình bước ra khỏi phòng. Đột nhiên, nàng ngửng đầu la lớn:
“Xin các ông ở lại. Từ khi các ông nhìn thấy tôi ở đây thì tôi chẳng còn gì để phải giấu các ông. Có lẽ các ông sẽ giúp được tôi theo những gì tôi sắp nói ra.”
Bất thần lao mình vào Zodomirski, nàng bật khóc:
“Em van anh, em buộc anh không được đấu súng với ông Stamm. Anh không được kết thúc cuộc đời hai chúng ta bởi một hành động vô nghĩa như thế! Đời anh là của em; không còn của riêng anh nữa. George, anh có nghe em nói không? Anh không thể làm điều ấy!”
“Marina! Marina! Nhân danh Chúa, xin em đừng dày vò anh thêm nữa. Làm sao anh có thể từ chối cuộc quyết đấu? Làm vậy tức là anh đã tự đánh mất danh dự mình. Mất! Em có muốn anh hành xử quá hèn nhát như thế không? Sự nhục nhã sẽ giết anh nhanh hơn viên đạn của Stamm.”
Nàng quay về phía Pravdine:
“Thưa đại úy, tôi nghe rằng trong trung đoàn, ông rất được kính trọng; ông có thể phán xét về việc danh dự này. Xin thương xót tôi mà nói cho anh ấy biết anh ấy có thể từ chối cuộc đấu súng. Xin hãy làm cho anh ấy hiểu đó không phải một cuộc quyết đấu mà chỉ là một vụ ám sát. Xin nói đi, nói đi, đại úy! Nếu như anh ấy không muốn nghe tôi, ít ra cũng sẽ nghe ông.”
Pravdine trông xúc động rõ rệt. Đôi môi anh run lên và đôi mắt rướm lệ. Anh nhổm người đến trước mặt Marina, cúi hôn một cách kính cẩn lên bàn tay nàng, run giọng nói:
“Để gánh hết cho cô bất cứ nỗi đau đớn nào, thưa cô, tôi sẽ không ngần ngại mà hy sinh cuộc đời tôi; nhưng để khuyên răn anh Zodomirski từ chối cuộc đấu súng này, chà đạp lên bộ quân phục của mình, là điều khó thể được. Mỗi đối thủ, vị hôn phu của cô cũng như Stamm, có quyền đưa ra những điều kiện riêng. Nhưng dù điều kiện nào chăng nữa, trong hoàn cảnh đại úy, cuộc đấu súng vẫn tuyệt đối cần thiết. Anh ấy cũng được biết là một người đấu súng tài tình; từ chối điều kiện của Stamm tức là ngụ ý rằng anh ấy chỉ được xem như khéo tay chứ chẳng phải tài tình thật sự.”
Zodomirski la lên:
“Đủ rồi! Marina! Đủ rồi! Tội nghiệp em! Em không biết những gì em đang đòi hỏi. Có phải em muốn anh cúi mình thật thấp để rồi chính em phải bị nhục nhã bởi anh? Anh xin hỏi, em có thể nào yêu được một gã đàn ông mất danh dự không?”
Mới đó, Marina đã ngồi phịch xuống trên một cái ghế; nhưng bấy giờ, nàng đứng bật lên, khuôn mặt tái xanh như một xác chết và bắt đầu khoác áo choàng vào người:
“Anh nói đúng, George ạ. Không phải em không còn yêu anh nữa, mà chính là anh sẽ căm hận em. Chúng ta đành cam chịu số mệnh. Hãy đưa tay cho em; có thể anh và em sẽ không bao giờ còn gặp nhau nữa. Ngày mai! Ngày mai! Anh yêu!”
Nàng dúi đầu vào ngực chàng, đôi mắt khô ráo, không thổn thức, nhưng trên khuôn mặt tỏ lộ một sự tuyệt vọng cùng cực.
Nàng muốn trở về một mình, nhưng Zodomirski vẫn khăng khăng đưa nàng về nhà.
Tiếng chuông đồng hồ nửa đêm gõ lên khi chàng trở lại. Vừa bước vào nhà chàng đã nói ngay:
“Các anh hãy đi nghỉ đi. Còn tôi phải viết vài lá thư trước khi ngủ. Năm giờ sáng, chúng ta phải có mặt ở điểm hẹn.”
Tôi cảm thấy rất mệt nên chẳng đợi nhắc đến hai lần. Pravdine ngủ trong phòng khách, tôi trong phòng Zodomirski, và chủ nhân căn nhà thì trong phòng đọc sách.
Khí lạnh buổi sáng đánh thức tôi dậy. Tôi nhìn lên cửa sổ thấy bình minh bắt đầu ló dạng; nghe tiếng Pravdine cũng đang động đậy. Tôi bước vào phòng khách. Zodomirski có mặt ngay sau đó. Khuôn mặt chàng tái xanh nhưng trầm tĩnh.
“Ngựa các anh đã sẵn sàng rồi chứ?”, chàng hỏi.
Tôi gật đầu.
“Vậy chúng ta khởi hành!”
Chúng tôi leo lên xe và phóng ngựa đi.
(còn kì nữa)
(nguồn VNTQ)