Đât Việt trời Nam- tiểu thuyết lịch sử của Đan Thành – chương 45)

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 45)

Đan Thành     

Hốt Tất Liệt ra công kén tướng

Trần Hưng Đạo dốc sức luyện quân..

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 45)

Đan Thành     

Hốt Tất Liệt ra công kén tướng

Trần Hưng Đạo dốc sức luyện quân

Đang nói Hốt Tất Liệt hỏi các quan xem ai là người có thể chỉ huy thuỷ quân được như các tướng Việt. A Thích Hãn bước ra tâu là có biết một người như vậy. Hốt Tất Liệt hỏi:

– Khanh đã biết có người như vậy sao không nói sớm với trẫm.

A Thích Hãn tâu:

– Thần chỉ sợ bệ hạ không dung người ấy nên không dám tâu lên.

– Khanh cứ nói đi. Chỉ cần người ấy có thể đánh được quân Nam, dẫu trước kia có tội lỗi gì trẫm cũng xóa hết.

A Thích Hãn nghe phán vậy mới tâu rằng:

– Người ấy họ Trương, tên là Văn Hổ. Cha Hổ là Trương Huyên vì không muốn thần phục nhà Đại Nguyên ta nên tập trung thủ hạ, mua sắm tầu thuyền, nhiều lần đánh cướp quan binh ở vùng biển phương Nam. Sau nhờ uy đức của hoàng thượng chiêu dụ được Trương Huyên nhưng Văn Hổ không chịu theo, nay vẫn hoành hành cướp phá trên vùng biển Quỳnh châu1. Quan binh không thể nào bắt được. Người này trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, vào đất liền có thể khai sơn phá thạch, ra ngoài biển biết được con nước xuống lên, cưỡi hải hạm rong ruổi trên biển lớn cả tháng mà không sợ kình ngao mưa gió, xem hải hoạ2, dụng la bàn3 tính toán nơi đi bến đỗ không sai sót bao giờ.

Hốt Tất Liệt nói:

– Làm sao mà tìm được y?

A Thích Hãn tâu:

– Khi trước đi đánh Nhật Bản, thần có gặp Trương Văn Hổ trên đảo hoang, vì mến y có tài nên khuyên về hàng triều đình. Y có nói “Triều đình muốn ta hàng, ít ra cũng phải phong tước vạn hộ”. Hoàng thượng muốn dùng người ấy, xuống chiếu phong làm vạn hộ tướng quân, thần xin đi dụ hắn về hàng.

Thượng thư Lưu Tuyên can rằng:

– Trương Văn Hổ chưa có công lao với triều đình, lại từng đánh giết quan binh, tự dưng được dùng làm tướng, ăn lộc vạn hộ, rất là trái lẽ. E rằng nhiều người không phục.

Thượng thư Sài Thung tâu rằng:

– Điều đó không ngại gì. Ngày xưa Thành Cát Tư Hãn dùng Mộc Hoa Lê, Nạp Nhã A chẳng phải đã từng là những kẻ thù đó sao? Thần nghĩ phép dùng người có công thì thưởng, có tài thì dùng, chớ vì lỗi trước của người ta mà bỏ.

Hốt Tất Liệt vui vẻ nói:

– Sài thượng thư nói rất hợp ý trẫm.

Phán xong, liền xuống chiếu phong Trương Văn Hổ làm vạn hộ Giao Chỉ hải thuyền, cho A Thích Hãn lĩnh kim bài đi triệu. A Thích Hãn nhận chỉ, liền mang hơn trăm tuỳ tùng lên thuyền đến Quỳnh châu, còn đang lênh đênh trên biển thì bị một đội hải hạm tấn công. A Thích Hãn ít quân không chống nổi, bọn hải tặc bắt được dẫn đến trước mặt một tướng cướp. Tướng cướp ấy hỏi:

– Nhà ngươi là quan lại phương nào, đi đâu tới nơi đây.

A Thích Hãn nói:

– Ta là mệnh quan của triều đình, đến đây tìm một người. Các ngươi bắt ta, không sợ triều đình mang quân đến hỏi tội ư?

Tướng cướp vểnh ria cười, nói:

– Nếu chúng ta biết sợ triều đình của các ngươi, đâu còn là hảo hán trên đời. Hẳn là triều đình cử ngươi đến đây tìm quan sở tại mưu vơ vét của cải trong chúng dân chứ gì. Thế thì chẳng thể tha cho ngươi được. Lâu la! Đem thằng quan chó này ra mổ thịt cho ta.

A Thích Hãn nói:

– ối ối! Ta có phải là con dê đâu mà đem mổ thịt. Ta đến đây không phải tìm quan địa phương mà muốn tìm Trương đầu lĩnh.

Tướng cướp ngạc nhiên, há mồm hỏi:

– Tìm Trương đầu lĩnh! Tìm Trương đầu lĩnh làm gì?

– Ta mang chỉ dụ của nhà vua đến phong cho Trương đầu lĩnh làm vạn hộ tướng quân. Từ nay Trương đầu lĩnh đã làm quan rồi. Xin dám hỏi tráng sĩ tên họ là chi?

– Ta là Lý Ngao, thuộc tướng của Trương đầu lĩnh đây. Để ta cho người đến báo với phó đầu lĩnh Triệu Kình.

Một chốc thấy có chiếc thuyền con đưa đến một viên tướng cướp khác. Viên tướng này miệng rộng, răng hô, mắt nhỏ mà tròn, nhìn chòng chọc như muốn cắn người ta. Bọn cướp biển trông thấy đều đứng lên chào. Đấy chính là phó đầu lĩnh Triệu Kình. Nghe Lý Ngao kể lại đầu đuôi xong, Triệu Kình hỏi A Thích Hãn:

– Nhà ngươi nói đến đây tìm Trương đầu lĩnh thì có gì làm bằng?

A Thích Hãn liền đưa tờ chỉ dụ cho Triệu Kình xem. Nhưng Triệu Kình không biết chữ, hỏi:

– Cái này là thứ khỉ gì đây?

A Thích Hãn nói:

– Đây là chiếu chỉ của nhà vua phong cho Trương đầu lĩnh làm vạn hộ tướng quân.

Triệu Kình nói với Lý Ngao:

– Ta chẳng biết vua với vạn hộ tướng quân là cái con mẹ gì, cứ trói cả lại đem về trình đầu lĩnh.

Lý Ngao tuân lệnh, cho lâu la giải bọn A Thích Hãn về sào huyệt trên hoang đảo ở phía Tây Quỳnh châu. Trương Văn Hổ trú quân ở khu dinh thự rất lớn trong cánh rừng giữa hoang đảo, bốn mặt có tường đá làm thành, từ biển lên phải đi qua một bãi cát rộng, trèo qua mấy trăm bậc đá mới đến Khán Hải môn. Xung quanh cây cối tốt tươi, vào trong đường đi rộng rãi, lính gác y giáp chỉnh tề, rõ là một chốn giang sơn riêng của bậc anh hùng chọc trời khuấy nước. Lý Ngao bảo bọn lâu la vào báo. Lát sau A Thích Hãn thấy Trương Văn Hổ từ trong dinh đi ra, mừng quá kêu lên:

– Trương đầu lĩnh cứu ta!

Trương Văn Hổ cũng kêu lên:

– Thuỷ sư A Thích Hãn, đại ca đi đâu mà đến nỗi thế này?

Nói xong quát bọn lâu la cởi trói rồi mời vào dinh, phân ngôi chủ khách nghị sự, hỏi:

– Tướng quân đem lính đến nơi hoang đảo này hẳn muốn bắt ta chăng?

A Thích Hãn cười, nói:

– Đâu có! Bậc anh hùng như Trương đầu lĩnh, dẫu có mười vạn thiên binh chắc chi đã dám bắt. Tôi mang chiếu chỉ của thiên tử đến phong cho đầu lĩnh làm vạn hộ Giao Chỉ hải thuyền, chẳng ngờ bị thủ hạ của đầu lĩnh tóm về đây, thế lại hoá may không phải tìm lâu.

Nói đến đây A Thích Hãn đứng dậy hô:

– Hoàng đế có chỉ.

Trương Văn Hổ cùng bọn lâu la quì xuống chờ nghe chỉ. A Thích Hãn loay hoay tìm mãi chẳng thấy chỉ dụ đâu, mãi sau mới nhớ ra là đã đưa cho Triệu Kình, chưa lấy lại. Trương Văn Hổ bảo:

– Thôi được rồi, để ta sai quân đến chỗ Triệu Kình lấy về đây.

Hôm sau Trương Văn Hổ tập họp lâu la, nói:

– Nay ta chịu sắc phong của hoàng đế, phải về triều chịu mệnh. Lý Ngao đi theo ta. Triệu Kình ở lại chăm lo cho anh em, trông coi doanh trại, đợi khi ta bình xong An Nam sẽ về cùng các ngươi chung hưởng giầu sang.

Triệu Kình nói:

– Chúng ta vốn là người Tống, không muốn thần phục nhà Nguyên. Đầu lĩnh nay nhận sắc phong há chẳng phải là đầu hàng quân cường Hồ mà làm tổn hại thanh danh của bậc đại hảo hán trên giang hồ ư? Chi bằng giết quách bọn A Thích Hãn, chiêu binh mãi mã, mua tầu sắm thuyền, lập một giang sơn riêng ở đây, thoả sức tung hoành có hơn không?

Bọn lâu la cũng đồng thanh nói:

– Xin đầu lĩnh ở lại cùng chúng tôi gây dựng cơ nghiệp.

Trương Văn Hổ bảo:

– Các ngươi nói cũng phải nhưng xét cho cùng, nước ta từ thời Bàn Cổ trải qua Phục Hy, Hoàng Đế, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Tấn, Tuỳ, Đường, Tống, nay đến nhà Nguyên ai có đức thì được thiên hạ. Không có triều đại nào thịnh rồi không vong, không có quốc gia nào không đến lúc thay vua đổi chủ. Chúng ta dẫu lưu luyến triều đại cũ phỏng có ích gì. Chi bằng theo tân trào lập chút công danh để tên tuổi lưu đến muôn đời không bị chôn vùi mục nát cùng cây cỏ có hơn không? Các ngươi cứ ở lại đây. Ta đi nhiều thì vài ba năm, ít thì dăm bảy tháng là quay lại, quyết chẳng khi nào bỏ rơi các ngươi đâu.

Bọn Triệu Kình cùng lâu la thấy không thể giữ được Trương Văn Hổ, mới mở tiệc ở Vọng Ba đình để tiễn đưa. ít ngày sau A Thích Hãn đưa Trương Văn Hổ về đến Đại Đô. Hốt Tất Liệt thiết triều, hỏi Trương Văn Hổ rằng:

– Nay trẫm muốn ra quân bình định Giao Chỉ nhưng các quan có người cho rằng việc vận chuyển lương thực khó khăn, người thì bảo thuỷ quân của An Nam rất mạnh, thuỷ quân của ta không thể địch nổi. Theo ý khanh nên làm thế nào?

Trương Văn Hổ tâu:

– Những khó khăn mà các quan trong triều đã tâu trình đều đúng cả nhưng không phải không vượt qua được.

– Vậy hẳn khanh đã có chủ kiến của mình?

– Tâu bệ hạ! Phàm đã tiến hành chiến tranh thì không bao giờ lại chỉ có thuận lợi mà không có khó khăn. Vì vậy người làm tướng phải cân nhắc thuận lợi khó khăn của ta và của đối phương xem bên nào nhiều ưu thế hơn, tiếp theo tìm cách hoá giải những khó khăn của ta, biến chúng thành những thuận lợi để nắm phần thủ thắng. Ví như quân ta nay nước rộng, dân đông, quân nhiều, tướng giỏi ấy là thế mạnh nhưng phải mang quân đi xa vận chuyển lương thảo không thuận lợi. Quân ta ở xứ lạnh đã quen, nay đến miền ẩm nhiệt dễ sinh ốm đau chướng lệ, lại gặp quân địch cơ động bằng thuyền, ấy là khó khăn. Để hoá giải những khó khăn này cũng chẳng khó gì.

Hốt Tất Liệt vui vẻ nói:

– Khanh hãy nói rõ cách giải quyết từng khó khăn ấy cho trẫm nghe.

Trương Văn Hổ nói tiếp:

– Thứ nhất muốn quân lính tránh được mùa hè nắng nóng phương Nam, phải nhanh chóng hành binh vào mùa Thu, Đông thực hiện đánh nhanh thắng nhanh. Thứ hai để bình định một miền đất đầy những sông ngòi, nhất định phải có thuỷ binh mạnh với những tướng lĩnh giỏi thuỷ chiến. Thứ ba muốn đánh nhanh thắng nhanh, việc giải quyết hậu cần phải đi trước một bước. Nếu dùng dân phu khuân vác, cứ mỗi lính phải có hai dân phu phục dịch, tất số dân phu lên đến hàng trăm vạn mới đủ, vì thế thần cho rằng dùng thuyền biển tải lương thảo là biện pháp tốt nhất.

Hốt Tất Liệt cười ha hả, nói:

– ý ấy thật hay! Quả là trời đã sai khanh xuống giúp trẫm. Tuy nhiên năm ngoái thuỷ quân của ta cũng rất mạnh, vì sao thất bại thê thảm đến như vậy?

Trương Văn Hổ tâu:

– Tâu bệ hạ! Thuỷ binh của ta năm ngoái mạnh mà thua là vì giữa bộ binh với thuỷ binh không kết hợp được với nhau trong khi tác chiến. Hải đoàn của nguyên soái Toa Đô hoạt động gần như hoàn toàn đơn lẻ, thiếu hẳn sự chi viện của quân kỵ bộ. Ngược lại quân kỵ bộ của thái tử khi cần đánh trên sông với quân Nam chỉ có một ít thuyền bè tự tạo với một đội ngũ thuỷ thủ, tướng lĩnh quen đánh nhau trên bộ mà thôi. Đến khi quân Nam phản công trên tuyến đường sông, hai đạo quân của ta mỗi người mỗi ngả. Như vậy thua cũng không lấy gì làm lạ.

Hốt Tất Liệt ra chiều suy nghĩ, gật gù:

– Đúng lắm! Đúng lắm! Nhưng làm sao có thể tạo ra được một đội thuỷ binh thiện chiến?

– Muốn có một đội thuỷ quân mạnh, xin hoàng thượng điều cho bảy vạn quân gồm hai vạn thuỷ thủ, năm vạn chiến binh của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng cùng các tướng lĩnh đến Khâm châu luyện tập, bất quá chỉ trong vòng nửa năm là có thể dùng được. Trong khi đó ta lo thu gom thêm lương thảo, đóng các đại hải thuyền để chở quân lương. Đầu mùa thu sang năm ra quân không phải lo gì nữa.

Hốt Tất Liệt cả mừng, nói:

– Phải lắm! Phải lắm.

Lập tức xuống chỉ cho các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Lưu Khuê, Trương Văn Hổ thao luyện bẩy vạn quân tại Khâm châu. Lễ bộ thượng thư Lưu Tuyên can rằng:

– Nhiều năm chinh chiến, dân tình rất cực khổ, thế nước chưa khôi phục. Xin hoàng thượng chớ nghe lời kẻ trộm cướp võ biền mà dấy động can qua. Thần e rằng lần ra quân này kết cục cũng chẳng hơn gì lần trước.

Hốt Tất Liệt nổi giận đùng đùng, thét:

– Giỏi cho Lưu Tuyên dám buông lời sàm bậy làm nản bụng quân, tội thật đáng chết. Võ sĩ hãy lôi ra ngoài chém.

Lưu Tuyên cố nói thêm rằng:

– Thần dẫu chết cũng không sao nhưng nghĩ câu “Hữu tham hữu hoạ, vô tham vô hoạ”. Nhà Nguyên ta đất rộng đến ức vạn dặm mà vẫn còn ham muốn mãi, chưa chắc đã là sự tốt lành.

Hốt Tất Liệt xua tay, nói:

– A! Ngươi dám nguyền rủa nhà Đại Nguyên ta sao? Chém ngay! Chém ngay!

Các quan đại thần trong khu mật viện cùng thượng thư Sài Thung, thượng thư Lương Tằng quỳ trước sân rồng, dập đầu dâng lời tấu xin cho Lưu Tuyên. Hốt Tất Liệt thấy các quan tâu trình tha thiết quá mới truyền rằng:

– Các quan đã có ý như vậy, hãy tạm tống y vào nhà ngục, đợi đánh xong phương Nam hãy đem ra xử.

Thân vương Tích Lệ Cơ bước ra tâu rằng:

– Thần nghĩ rằng Lưu Tuyên chỉ lo cho xã tắc mà thôi. Nay dân nước rất là khổ sở vì phải phục dịch quân lính. Từ năm Chí Nguyên thứ mười tám1 tới nay quân ta đi đánh Nhật Bản, Chiêm Thành, Giao Chỉ đều thất lợi. Quân sĩ chết hại đến hàng trăm vạn người. Kẻ thoát về được lại què cụt thương tật không làm ăn gì được, trở thành gánh nặng trong dân chúng. Đồng ruộng thiếu người cầy cấy, thợ thuyền công nghệ mải việc chế tạo khí cụ chinh chiến, buôn bán thông thương ùn tắc vì loạn lạc, sĩ tử phiêu dạt không biết hướng về đâu. Lại thêm giặc cướp nổi lên ở khắp nơi làm cho tứ dân càng thêm cùng khốn. Nay dồn sức nước để cất quân đi, thật là nguy lắm. Xin hoàng thượng tha cho Lưu Tuyên mà xét chuẩn lời tâu ấy.

Một số thân vương khác cũng tỏ ra đồng tình với Tích Lệ Cơ. Hốt Tất Liệt mắng át đi rằng:

– Tích Lệ Cơ là một thân vương mà cũng theo Lưu Tuyên nói lời nhảm bậy. Ngươi thật không đáng mặt là con cháu của dòng họ Một Nhĩ Chỉ Chân.

Mắng xong, sai võ sĩ đuổi Tích Lệ Cơ ra ngoài, lại truyền rằng từ nay không có chiếu đòi, không được vào chầu. Tích Lệ Cơ bị quân ngự lâm lôi ra ngoài nhưng vẫn cố ngoái đầu lại nói rằng:

– Hoàng thượng ôi! Nông suy bách nghệ bại. Nay đồng ruộng bỏ hoang, không người cầy cấy, tang đạo úa tàn, dân nước rồi biết sống sao đây?

Hốt Tất Liệt gào lên:

– Lôi ra ngay! Lôi ra ngay! Đừng để nó nói nhiều lời, bẩn tai của trẫm!

Các thân vương khác thấy vậy, không ai dám nói thêm gì nữa nhưng trong lòng không khỏi lo lắng buồn  rầu. Chỉ có đám võ quan chủ chiến  là hung hăng  hưởng ứng, Ô Mã Nhi

tâu rằng:

– Các tướng Phí Củng Thần, Đào Đại Minh đều coi giữ thuỷ quân đã lâu, xin hoàng thượng cho cùng đến Khâm châu luyện quân.

Hốt Tất Liệt phán:

– Trẫm chuẩn tấu. Các khanh thấy ai là người có tài thuỷ chiến, cứ tiến cử. Trẫm trọng dụng ngay.

Phàn Tiếp tâu:

– Trương Ngọc, Từ Khánh cũng là những tướng có thể chọn làm thuỷ sư hiếm có trên đời.

Hốt Tất Liệt cũng chuẩn tấu ngay, rồi xuống chiếu cho các tướng mang quân đến Khâm châu tập luyện. Binh bộ thị lang là Điệt Hắc Mê Thất tâu:

– Năm ngoái đất An Nam tuy bị quân ta tàn phá nhưng xem ra vua tôi chúng không sợ hãi chút nào. Xin hoàng thượng cử một đoàn sứ giả sang xem năm nay bọn họ định chống đỡ với ta ra sao.

An phủ sứ lộ Bắc Kinh là Bột Nhan Thiết Mộc Nhi tâu rằng:

– Lời quan thị lang nói rất phải. Nhân vừa có sứ của An Nam sang, hoàng thượng nên thả cho họ về rồi cử sứ đoàn chúng ta cùng đi, lựa thời mà dò xét tình hình người Nam.

Thượng thư Lương Tằng tâu rằng:

– Các quan bàn vậy cũng phải nhưng không nên thả hết sứ Nam. Ta hãy thả Nguyễn Đức Vinh cùng một nửa sứ đoàn của chúng về. Còn Nguyễn Nghĩa Toàn không nên giam nữa, giữ lại cho ra ở ngoài công quán, cử người giao tiếp mà dò hỏi, thế nào cũng biết hết tình hình vua tôi của chúng.

Hốt Tất Liệt nghe theo lời tấu ấy, ngày mười sáu tháng sáu năm Chí Nguyên thứ hai mươi ba (08-7-1286) cử Diệc Mã Lạt Đan làm chánh sứ sang Đại Việt, cho quan đại phu nước Đại Việt là Nguyễn Đức Vinh cùng về. Trên đường đi, Diệc Mã Lạt Đan dò hỏi Nguyễn Đức Vinh:

– Năm ngoái có chuyện chiến tranh, xem ra dân xứ An Nam điêu hao nhiều lắm, vạn nhất có chuyện can qua nữa, người Nam lấy gì mà chống.

Nguyễn Đức Vinh cười mà rằng:

– Cảm ơn quan chánh sứ đã có lòng lo cho nước chúng tôi, nhưng tre trên rừng vẫn còn, nước Đại Việt không sợ thiếu gì người đánh giặc.

Diệc Mã Lạt Đạn lại hỏi:

– Quan đại phu đã nói như vậy, hẳn người An Nam đã có trù liệu cả rồi.

– Đúng thế.

– Nhưng năm nay quân thiên triều thuỷ bộ cùng tiến xuống, hỏi người Nam định chống thế nào đây.

– Núi có sơn thần, biển có long tinh, làm sao mà phải sợ.

Đại loại Diệc Mã Lạt Đan còn dò hỏi nhiều lần như thế nữa nhưng Nguyễn Đức Vinh vẫn chỉ trả lời mơ hồ như vậy, hoá ra cuối cùng không dò xét được việc gì. Lúc đến Thăng Long, Diệc Mã Lạt Đan cũng dò hỏi các quan viên Đại Việt như vậy nhưng ai ai cũng trả lời lấp lửng cả. ít ngày sau nghe nói tướng Đại Việt là là Trung Thành vương luyện thuỷ binh ở Tây hồ, Diệc Mã Lạt Đan liền cùng bọn tuỳ tùng ăn mặc giả ra kiểu người Tống lánh nạn đến xem, thấy thuyền quân Việt nhiều vô kỳ kể. Hàng nào đội ấy cờ xí nghiêm trang, gươm giáo sáng ngời. Trung Thành vương cầm cây giáo dài, đứng trên mũi một chiếc ưng thuyền, chỉ huy bày trận. Xem một lúc lâu, Diệc Mã Lạt Đan hỏi bọn tuỳ tùng rằng:

– Các ngươi có biết người An Nam bày trận gì đây không?

Bọn tuỳ tùng đều nói:

– Chúng tôi chưa từng đánh thuỷ bao giờ nên không biết trận này là trận gì.

Diệc Mã Lạt Đan nói:

– Ta xem ra đây là trận Tiểu Chu Thiên của Tôn Vũ tử.

Bọn tuỳ tùng nhao nhao hỏi.

– Xin chánh sứ giảng tường tận cho.

– Trận này vốn Tôn Tử soạn cho bộ binh nhưng người Nam đã biến đổi chút ít mà huấn luyện cho thuỷ quân của họ. Toàn trận lấy phương vị đều là số tám. Phía ngoài là bát trận gồm: Thiên, địa, phong, vân, long, hổ, xà, điểu. Mỗi trận có sáu đội thuyền, tám trận là bốn mươi tám đội. Bên trong có bốn hiệu gồm: Tả hiệu, Hữu hiệu, nội Tả, nội Hữu. Mỗi hiệu có bốn đội, bốn hiệu là mười sáu đội. Lại có hai mươi bốn đội du binh tượng trưng cho hai mươi bốn khí của trời đất. Cộng cả trận có tám mươi tám đội thuyền. Mỗi đội có năm mươi người, tổng số là bốn nghìn bốn trăm chiến sĩ. Đó là tượng số tiểu chu thiên vậy. Trận này có mười phép biến là Thái Cực Hỗn Thiên, Lưỡng Nghi Phân Khai, Tứ Tướng Đối Xung, Trận Vuông, Trận Tròn, Trận Cong, Trận Thẳng, Trận Nhọn, Trường Xà Đảo Quyền, Trường Xà Liên Châu. Khi biến trận thì lấy bốn vị trí thiên, địa, phong, vân ở bốn góc làm chính binh, lấy bốn vị trí long, hổ, điểu, xà ở bốn phương làm kỳ binh. Kỳ chính, chính kỳ xoay vần biến hoá vô cùng tận. Hai mươi bốn đội du binh để bổ khuyết cho những nơi cần thiết.

Bọn tuỳ tùng nói:

– Chánh sứ đã biết rõ như vậy, sau này lo gì không phá được.

Diệc Mã Lạt Đan nói:

– Không phải thế. Những điều ta nói trên kia chỉ là những kiến thức tóm lược của thế trận này thôi. Trong mười phép biến cơ bản lại còn tuỳ từng người chỉ huy có cách thay đổi khác nhau nên tám mươi tám đội binh biến hoá muôn ngàn nẻo, nếu không nhận biết kịp thời, dẫu có trăm vạn hùng binh cũng không phá được.

Dân chúng trên bờ đứng xem, một chàng thiếu niên1 nói:

– Khiếp! Người xem đông quá nhỉ. Họ bảo ở hồ Lục Thuỷ cũng đông lắm.

Một gã thiếu niên khác hỏi chàng vừa nói:

– Đằng hồ Lục Thuỷ luyện tập môn gì.

Chàng kia chỉ tay về phía mấy người đi ngựa đang đến gần, nói:

– Nghe mấy vị công tử kia bảo đằng hồ Lục Thủy, thần xạ Nguyễn Chế Nghĩa đang dạy quân lính bắn cung, bắn nỏ.

Gã thiếu niên nói với vẻ thèm thuồng:

– Tiếc quá! Tôi kém có một tuổi mà không được đi lính để luyện tập đợt này, chỉ mỗi mình anh tôi được đi thôi.

Anh chàng kia phủ nhận:

– Không phải! Đấy là ý của Hưng Đạo đại vương nói rằng: “Quân cần tinh, không cần đông” nên mới để đợt của chúng ta lại. Các vương hầu, tướng lĩnh luyện quân ráo riết cũng là theo lệnh của đại vương cả đấy.

Diệc Mã Lạt Đan vẫn chú ý lắng nghe câu chuyện của hai chàng thiếu niên Đại Việt, thấy hai anh này có vẻ hiểu biết, mới tọ tọe bắt chuyện, hỏi:

– Nghe nối lần nài quân Nguên sang tông lám. Cái nỉ có piết Hơơng Tạo vơơng bố  quân lơợc thế nào tể chôống nhao với quân Nguên khôông?

Gã thiếu niên láu táu nói:

– ối giời! Sang đông thì sợ cái quái gì. Hưng Đạo vương đã cho…

Gã thiếu niên chưa nói hết câu, bị anh bạn dẵm lên chân ra hiệu im ngay. Rồi anh ta hỏi lại Diệc Mã Lạt Đan:

– Ông là người Tống lánh nạn phải không? Muốn biết đại vương bố trí quân lực thế nào phải đến hỏi đại vương ấy chứ.

Diệc Ma Lạt Đan thấy không dò hỏi được gì, bảo bọn tuỳ tùng:

– Ta quay về hồ Lục Thuỷ xem họ bắn cung, bắn nỏ thế nào.

Nói xong lên xe đi ngay. Chàng thiếu niên Đại Việt hỏi bạn:

– Sao anh lại ra hiệu cho tôi lặng im.

Chàng kia bảo:

– Nghe giọng nói cùng nhìn cách ăn mặc, họ có vẻ là người Tống. Nhưng biết đâu chúng chả là bọn gian tế của người Nguyên đi dò xét quân ta. Chớ có tiết lộ điều hệ trọng của quan binh. Ông tớ dặn thế.

– ừ! Anh nói phải. Tôi cứ hay láu táu.

Sau trận chiến năm ngoái, xóm Cây Duối bên hồ Lục Thuỷ thay đổi nhiều lắm. Nhà hàng thịt chó chạy loạn về quê chưa kịp lên, cửa hàng bị đập phá tan nát không có người dọn dẹp, đậy tạm bằng mấy tấm liếp nứa. Vợ chồng bác cả Thìn gồng gánh về từ lúc giặc mới chạy khỏi thành Đại La. Mấy ngày dọn dẹp nhà cửa xong, bác Thìn gái lại sắm gánh, mua bún, mua cua nấu riêu bán cho các chú lính cùng những bà con trong phố đang lần lượt tìm về. Bác Thìn trai vẫn cọc cạch chữa xe chữa kiệu ngoài đầu phố. Công việc của bác dạo mới đầu chỉ xem như việc làm qua ngày đoạn tháng nhưng về sau thấy bác làm khéo nên các vương hầu, công tử, thương khách giầu có đến nhờ làm ngày một nhiều, hoá ra thành nghề hẳn hoi. Anh con rể, chồng cô Quy phải cùng làm phụ với bác. Cậu Long đi lính vắng nhà nên hai bác để vợ chồng cô Quy ở cùng. Chỉ có cái Phượng là khác tính hơn cả, nó bảo không thể sống cảnh nghèo khó mãi được nên sang hát cho nhà Tư Phúc. Bác cả Thìn bảo:

– Mày đi hát ở bên ấy thì tao không còn bố con gì với mày nữa. Nhà tao giữ đạo thanh bần, không thể có đứa con gái đi theo bọn sướng ca vô loài1 được.

Cái Phượng cãi rằng:

– Con cũng muốn giữ giá thanh cao nhưng cái nghèo đi với cái hèn, con không chịu được.

Hoá ra hai bố con cãi nhau. Cái Phượng mặc cho bố mẹ chửi mắng, cứ sang kiếm tiền ở nhà Tư Phúc.

Năm ngoái, kỹ viện Phúc Tình bị quân Thát đốt cháy chỉ còn trơ lại cái nền đất với đống tro tàn. Tấm đại tự có ba chữ Tử Vị Quốc đen thui nham nhở, nằm lẫn trong đám bàn ghế giường tủ của các kỹ nữ. Người ta kháo nhau rằng lý tể Vũ Tình cùng hai đứa con của Tư Phúc là Mạnh Hùng và ấu Lang mải chôn giấu tiền của, khi quân Nguyên vào, không kịp chạy, bị nó giết chết cả. Ai cũng bảo:

– Khổ thân anh Tư Phúc ngày trước, có công với nước mà vớ phải chị vợ chẳng ra gì, đến nỗi phải tiệt mầm thối mấm, hết cả người hương hoả.

Người khác bảo:

– Tại cái con vợ nó vô phúc quá, đi bắt nhân tình với thầy lý Vũ Tình mới đến nỗi như vậy.

– Ôi dào ơi! Nhân tình mới chả nhân bánh. Già nhân ngãi non vợ chồng lại còn hùn vốn làm ăn, bức hãm ả đào, kỹ nữ nhiều đứa đến chết. Nó báo oán cho đấy thôi.

Vợ Tư Phúc trở về đào ở vườn sau lên được mấy chum xu đồng, ngân lượng, thuê người dựng tạm căn nhà lá, lại tiếp tục chiêu bọn ca kỹ làm đệ tử, mở hàng đón khách, vì thế mới dỗ được cái Phượng nhà bác cả Thìn theo sang hát. Bác cả Thìn nói con không được, giận quá kéo về đánh cho một trận thật đau. Thế là nó trốn đi biệt từ cuối năm ngoái, không thấy về nữa. Cả nhà đi tìm khắp nơi cũng chẳng thấy đâu. Bác Thìn gái vật mình khóc mấy tháng giời. Bác Thìn trai ngày càng trở nên lầm lì ít nói.

Sát với bờ hồ là một ngôi nhà nhỏ mới làm, phía trước cũng mở cửa bán các thứ hàng xôi, chuối, kẹo bột, chè đỗ đen cho lính tráng cùng những khách qua lại. Chủ quán chẳng phải ai xa lạ mà chính là vợ chồng bác đô trưởng Thân Văn Khoai. Bác Khoai gái trước đây gọi là cô Trịnh Thị, em út của bác thập trưởng già Trịnh Quang Minh. Bác Minh tử trận ở Hoàng giang, không có người thừa tự nên tấm hoành phi có ba chữ Tử Vị quốc vua ban treo ở nhà vợ chồng bác Khoai.

Các lầu viện khác quanh hồ cũng đều bị quân Nguyên tàn phá chưa kịp sửa sang. Vả nữa người ta lo rằng chúng lại sang, sợ nó đốt hết nên không ai có ý xây dựng kiên cố làm gì. Tất cả chỉ là tàm tạm, nhỡ giặc vào, có chạy ra ngoài, chính tay mình đốt đi cho nó sướng chứ chẳng để quân Thát đến ở.

Bấy giờ là tháng mười đầu mùa đông2 nhưng tiết trời còn ấm, lại có nắng hanh. Quanh hồ Lục Thuỷ đông nghịt những người xem quan binh tập trận. Nhiều nhất là đám trẻ lau nhau, tóc để trái đào cùng những gã thiếu niên mới nhớn chưa được gọi vào lính. Chúng túm tụm kéo nhau chạy theo những đoàn thuyền lướt trên mặt hồ. Các vị đô trưởng, giáp trưởng quát tháo chỉ huy quân lính. Mỗi đội thuyền có năm chiếc, gọi là một ngũ. Bốn chiếc có quân lính cầm nỏ đứng trên, đuổi theo một chiếc mang những hình nộm bằng cỏ bện mặc y giáp lính Nguyên. Các xạ thủ thấy vị trưởng giáp phất lá cờ thì tất cả cùng bắn. Tên cắm tua tủa vào những hình quân Nguyên trên chiếc thuyền đang chạy phía trước. Lần lượt từng đội xuất phát từ bờ cạnh xóm Cây Duối, bơi men theo phía Tây, xuôi  hướng Nam đến tít gần bến Triều Đông1 rồi mới vòng theo bờ phía Đông quay về. Mỗi lần binh lính bắn túi bụi vào đám bia quân Nguyên, những người chạy theo trên bờ xem lại hô “Sát Thát! Sát Thát” ầm cả lên.

Diệc Mã Lạt Đan đến xóm Cây Duối, trời đã gần trưa. Trông thấy cảnh tượng như vậy vừa tức vừa sợ, bảo bọn tuỳ tùng:

– Trời hanh quá. Ta vào quán kia làm ít chè đỗ đen cho nó giải nhiệt.

Bọn tuỳ tùng cùng vui vẻ bảo:

– Lão gia nói phải lắm. Chỗ ấy đông người, ta vào đấy biết đâu chả nghe được khối chuyện.

Trời càng về trưa khách càng đông, vợ chồng bác Khoai phải kê cả bàn ghế ra gốc cây cho khách vào ăn quà, uống nước. Diệc Mã Lạt Đan chọn một chỗ mát có kê bộ bàn ghế lớn, cùng bọn thủ túc ngồi nói chuyện vui vẻ như những người bình đẳng với nhau, chờ chủ quán đến phục vụ. Cô Trịnh Thị hãy còn trẻ, có đôi phần nhan sắc, nhanh nhẹn đi hết bàn này sang bàn khác, bưng hàng cho khách, lại tính toán thu tiền không nhầm lẫn bao giờ. Bác Khoai chẻ củi, quạt lò, đun nước, nấu chè. Trời nắng nhưng cũng hơi se se lạnh mà bác chỉ đóng mỗi cái khố ngắn với khoác chiếc áo lính cũ cộc tay. Diệc Mã Lạt Đan cùng bọn tay chân sau khi được mấy bát chè, tỉnh táo hẳn ra, bắt chuyện, hỏi bác Khoai rằng:

– Ngộ hỏi khôông phải! Ngài tước cái nỉ cũng ti lính hử?

Bác Khoai vui vẻ trả lời:

– Vâng! Tôi đi lính hơn hai chục năm. Năm ngoái đánh Thát xong, tuổi cao, sức khoẻ xuống mới được hoàng thượng cho về nghỉ, làm lý tể thay thầy lý Tình ở khu này. Thế chú khách2 là người Tống hay người Thát?

Diệc Mã Lạt Đan giả vờ cười hể hả, làm ra vẻ thân mật, nói:

– ố ồ! Thảo nào mà ngộ thấy cái nỉ còn khoẻ mạnh lám à. Ngộ là ngời Tôốngti lánh nạn sang tây à. Nghe nối quân Nguên nam nai sang nhêù lám, quân An Nam có chừng nài làm sao tánh tược chôống.

Bác Khoai bảo:

– Đánh được chứ! Người Việt không đánh trận bằng quân đông, mà đánh bằng lòng nhân nghĩa nên đã đánh là chắc thắng.

– Nhơơng nghễ làm sao mà mạnh như vợi?

– Người ta biết trọng điều nhân nghĩa không bỏ bê cha mẹ vợ con. Binh lính biết trọng điều nhân nghĩa không coi nhẹ việc quân, việc vua3 nên ai ai cũng quyết đánh giặc thù. Quân dù ít nhưng có được nhân nghĩa cũng mạnh gấp trăm gấp nghìn lần vậy. Cái đó những đạo quân giặc cướp chuyên đi xâm lấn người khác không thể có được.

Diệc Mã Lạt Đan càng muốn dò xét, càng khó hiểu, đành cùng thủ hạ quay về nhà công quán.

Lúc bấy giờ Hưng Đạo vương truyền lệnh cho tất cả các vương hầu trong cả nước luyện tập quân sĩ. Các đạo quân đều đã sẵn sàng, duy có binh sĩ của Tá Thiên vương Trần Đức Việp là chưa đủ số. Vua Trần Nhân tông xuống chiếu cho lấy thêm trai tráng ở thành Đại La vào lính để bổ sung những chỗ thiếu khuyết ấy. Bác Thân Văn Khoai bây giờ là lý tể của xóm Cây Duối, cầm thẻ gọi đăng lính đến từng nhà những người có tên, trong đó có cả anh chồng cô Quy, con rể bác cả Thìn. Trai tráng khắp thành suốt cả chục ngày nô nức lên đường. Anh chồng cô Quy sợ hãi, không muốn vào lính, chúi ở trong nhà. Bác cả Thìn bảo:

– Con cứ mạnh dạn mà đi, việc gì phải sợ. Thầy đánh bao nhiêu trận mà đâu đã có việc gì. Cứ cố gắng luyện tập cho tốt, ra trận phải mạnh dạn thì giặc nó sợ mình. Anh Long mày ngày xưa ở nhà đi học, người mảnh như cái lạt, tưởng không làm gì nên hồn, thế mà vào lính một thời gian chững chạc hẳn lên, đuổi giặc suốt từ A Lỗ đến tận ải Lộc Bình, lúc nào nhắn thư về cũng vui như tết đấy thôi.

Anh con rể không dám nói gì, lùi lũi đi xuống bếp ngồi. Cô Quy đi chợ về vẫn thấy chồng ngồi đấy, bảo:

– Em nghĩ nhà nên nghe lời thầy, theo anh em vào lính, đi ra ngoài cho nó mở mang đầu óc ra, chứ làm người đàn ông cứ lúi xúi ở nhà với vợ chẳng ra sao cả.

Anh chồng lí nhí bảo:

– Tôi cũng muốn đi lính với anh em nhưng mình sắp sinh con, biết làm thế nào.

Cô Quy cười, nói:

– Việc ấy có gì phải lo. Còn thầy mẹ chứ đâu có ở một mình mà sợ. Để em nấu cơm cho mình ăn sớm rồi ra đình với anh em.

Cô Quy nói xong, hì hục làm cá, nấu cơm, xong đâu đấy dọn mâm nhưng anh chồng không chịu lên ăn. Bác cả Thìn nhấm nháp tí rượu chờ các con. Cô Quy thấy chồng mãi không lên, chạy xuống bếp, nói:

– Nhà không lên ăn cơm, để thầy mẹ chờ.

– Mình cứ bảo thầy mẹ ăn cơm đi. Tôi không đói.

Cô Quy phát bực, đổi giọng bảo:

– Tôi thật xấu hổ với chị em về anh.

– Tôi làm sao mà mình phải xấu hổ?

– Lại còn không ư? Anh không ra chợ mà xem người ta hát thì biết.

– Hát cái gì.

– Dỏng tai lên mà nghe người ta hát thế này này: Chồng người đánh giặc ngược xuôi. Chồng em ngồi bếp cho “gì !” ăn gio1. Đấy! Anh xem chị em người ta hát thế dễ có đeo mo vào mặt mới không xấu hổ.

Anh chồng đứng dậy, vùng vằng bảo:

– Được! Để tôi đi lính tôi chết cho mình khỏi phải đeo mo vào mặt.

Nói xong chạy lên nhà vơ áo khố định bỏ đi. Bác cả Thìn bảo:

– Con muốn đi đâu cũng phải ăn cơm xong đã. Ăn đi rồi thầy đưa con ra đình với anh em.

Bác Thìn gái cũng nói:

– Ngồi xuống ăn cơm đi con, rồi bu bảo.

Anh con rể miễn cưỡng ngồi xuống mâm, cơm nước xong, nói:

– Hôm nay con ra đăng lính, từ mai không có ai giúp thầy làm việc, thầy cũng cao tuổi rồi không nên làm ham quá, phải giữ sức. Nhà con sắp sinh cháu, trăm sự nhờ thầy bu cả.

Bác Thìn gái cười, bảo:

– Con không phải lo, cầm chỗ tiền này đi, nhỡ khi cần đến phải chi dùng.

Nói xong đặt túi tiền đồng vào tay con rể. Bác cả Thìn giục:

– Thôi! Cha con mình đi đi.

Cô Quy bụng to kềnh, tiễn chồng ra đến cây duối đầu ngõ, dúi vào tay anh một bọc nhỏ, không biết trong ấy gói những thứ gì. Đợi chồng đi xa rồi, cô mới quay vào, lấy tay áo quệt ngang đuôi mắt.


Diệc Mã Lạt Đan ở lại Đại Việt thêm nửa tháng nữa cũng không dò xét thêm được gì, đành xin về Nguyên. Vua Trần thuận cho sứ Nguyên về nước rồi thiết triều, hỏi Hưng Đạo vương :

– Người Nguyên cho sứ sang là để dò la việc quân tình của ta. Quốc công trù bị quân lực có cần thay đổi gì không?

Hưng Đạo vương tâu:

– Về căn bản, quân ta đã bày xong thế trận. Giặc đến nhất định ta phá được. Nay chỉ còn một việc thần còn băn khoăn chưa biết nên chọn ai.

Nhà vua phán:

– Còn việc gì, khanh cứ nói.

Hưng Đạo vương tâu:

– Bên sông Như Nguyệt là nơi chứa quân lương của ta ở Mễ sơn để tiếp tế cho các đạo vùng ấy, thần còn phân vân chưa biết nên trao cho ai trấn giữ.

Hưng Đạo vương vừa tâu xong, trong võ ban có một vị vương râu rậm, tiếng vang, bước ra tâu rằng:

– Thần xin tiến cử một người, chức tuy nhỏ nhưng đủ sức đảm đương việc ấy.

Triều thần nhìn xem, người vừa tâu chính là Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng.

Thật là:


Gỗ tốt, kén tay người thợ giỏi

Tướng hay còn đợi đúng việc dùng.


Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng tiến cử người nào đi giữ kho lương ở Mễ sơn.

 


1 Quỳnh châu: Đảo Hải Nam, Trung Quốc ngày nay.

2 Hải hoạ: Hải đồ tức bản đồ đi biển.

3 Dụng la bàn: Dùng địa bàn. Người Trung Quốc biết dùng kim Nam châm vào việc định phương hướng từ thời nhà Tống.  Phát minh này được áp dụng ngay vào việc đi biển, đến đời Minh thì kỹ thuật la bàn mới thực sự phát triển.

1 Năm Chí Nguyên thứ mười tám: Tức năm Tân Tỵ-1281.

1 Ngày xưa trai tráng đến tuổi trưởng thành vẫn gọi là thiếu niên.

1 Thời phong kiến ở nước ta, những người làm nghề ca hát rất bị coi khinh. Thậm chí triều đình còn ra đạo luật không cho con em những người này đi thi.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư (ĐVsktt) chép: Mùa Đông, tháng Mười, kiểm duyệt quân lính điều động được.

1 Hồ Lục Thuỷ ngày xưa rộng đến tận phố Hàng Chuối bây giờ.

2 Từ giữa thế kỷ XX trở về trước, dân ta thường gọi những người từ Trung Quốc sang là chú khách, do một truyền thuyết cho rằng người Việt, người Hoa là anh em. Tổ tiên người Việt vốn là anh, xuống phương Nam lập nghiệp, nhường cho người em ở lại đất phương Bắc.

3 Mạnh Tử nói: Chưa hề có người quí điều nhân nghĩa mà bỏ bê cha mẹ vợ con mình. Chưa hề có người trọng điều nghĩa mà lại coi việc vua việc nước nhẹ hơn việc tư riêng của mình (Mạnh Tử tập Thượng, quyển nhất).

1 Câu hát này cho đến cuộc kháng chiến chống Mỹ giữa thế kỷ XX vẫn còn rất phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhân dân dùng để chế nhạo những chàng trai nhút nhát không dám đi làm nghĩa vụ quân sự.

Đ.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder