Giàn thiêu – truyện ngắn Võ Thị Hảo (phần 3&4)

Khi gương mặt trắng bệch của Từ Vinh dựng ngược lên từ mặt sông, ập vào mặt Diên Thành hầu khiến ông ta cất tiếng rú hoảng loạn…

 

Khi gương mặt trắng bệch của Từ Vinh dựng ngược lên từ mặt sông, ập vào mặt Diên Thành hầu khiến ông ta cất tiếng rú hoảng loạn,Từ Vinh phu nhân đang mê man bất tỉnh trên giường bỗng bật dậy. Bà vươn cánh tay trái ra khoảng không, cặp mắt hoang dại dõi phía cửa chính, gọi thảm thiết : ” Từ công !…Từ công…!”. Vẫn vươn tay, bà đi thẳng ra cửa, mắt vẫn hướng xa xăm.

Đám ngưòi hầu sợ mất vía mà không dám gọi. Từ Vinh phu nhân lùi lũi đi. Cho đến khi trán vập vào cánh cổng gỗ lim, máu chảy loang mặt, bà quay nhìn ngơ ngác như sực tỉnh cơn mơ. Bất chợt, bà trở vào nhà, đĩnh đạc vấn tóc, đòi gia nhân đưa cơm nước tới. Bà lặng lẽ ăn một mạch hết ba bát canh sâm. Rửa tay bằng nước thơm, bà đứng dậy mở tủ chọn bộ xiêm áo đẹp nhất đã mặc trong ngày cưới, vận vào người. Đánh phấn thoa son xong, cẩn thận cất chiếc tráp khảm trai vào tủ, ngắm mình giây lâu trong mặt gương đồng, khẽ bật lên một tiếng cười sắc lạnh, bà thoăn thoắt đi lại trong mấy gian nhà rộng, như chưa hề hôn mê bất tỉnh ba ngày trên giường.

Từ Lộ không biết mình đã về đến nhà bằng cách nào. Toàn thân tê dại, bê bết bùn đất, mắt nhợt ra vì nhọc mệt, chất chứa uất hận. Chàng đi vào nhà nửa mê nửa tỉnh. Mãi đến lúc chạm mặt cô hầu gái của Từ phu nhân đang rối rít chạy ra, Từ mới sực nhớ rằng mẹ chàng còn đang hôn mê trên giường. Trong lòng chàng nhói lên nỗi xót xa ân hận rằng mình vô tình, bất hiếu, đã không chầu chực bên gối mẹ trong cơn nguy kịch. Từ hoảng hốt chạy tới vén bức trướng che giường mẹ. Giừơng trống không. Mẹ đã có mệnh hệ gì rồi ư? Hay bà đã bị bắt đi bởi quỷ kế của Diên Thành hầu ?

Từ cuống cuồng cất tiếng gọi mẹ. Tiếng gọi tuyệt vọng của chàng vang lên, đập vào những bức tường hoang lạnh, dội lại. Chàng hối hả chạy trong ngôi nhà hun hút sâu, tìm khắp cả ngoài sảnh và mấy gian từ đường, cả dưới những khóm trúc, vẫn không thấy.

Kiệt sức, tuyệt vọng, Từ ngã ngồi xuống nền nhà, hai tay ôm mặt, bỗng nghe tiếng gọi lanh lảnh “Từ con…”. Giật mình ngẩng mặt lên, thì thấy một ngươì đàn bà gầy guộc, gương mặt quý phái hốc hác, vận bộ xiêm áo ngày cưới may bằng vóc màu hồng có đính kim tuyến, dáng đi như lướt trong cảnh tranh tối tranh sáng đang tiến về phía chàng. Theo sau bà, đám gia nhân rối rít lo lắng. Từ thất kinh khi nhìn thấy gương mặt của mẹ dưới vành khăn cưới. Đau khổ quá, mẹ đã phát điên rồi chăng? Chàng rợn cả tóc gáy, không rõ mơ hay thực. Mẹ chàng cũng đã đi theo cha và oan hồn của bà đang hiện về kia ?

Từ Lộ đang ngơ ngác thì mẹ chàng nhoẻn cười nói tiếp:

-…Từ …con !…Cha con đang đứng bên cửa điện thứ ba của Diêm vương .Ông đợi ngày mẹ con ta trả được oán này. Hồn oan ức đói rét ở ngoài cửa điện. Đêm ngày chầu chực…

Từ nức nở:

– Vâng, thưa mẹ, cha con chết oan bởi Đại Điên và Diên Thành hầu…

Mẹ chàng giơ một ngón tay lên trời:

– Ta biết. Hồn cha con về dẫn ta đi. Ta vừa trôi trên sông cùng với cha con. Nước sông Tô lạnh lắm. Đêm nay cha con không ngủ .

Từ chắp hai tay:

– Con xin mẹ! Mời mẹ vào nằm nghỉ . Đã có con lo chu toàn mọi việc.

Phu nhân vẫn tiếp tục :

– Cha con đêm nay mắt không nhắm, chồn chân mỏi gối chầu bên cửa điện Diêm vương. Mỗi canh giờ lại nghe một trăm hai mươi ba lần tiếng kêu rú của những người bị tra tấn dưới A tỳ ngục. Ngắm bảy lần rừng đao, bảy lần rừng kiếm ánh lạnh như rắn mà đau cả ruột gan. Nhìn thấy mười tám cái vạc đồng nấu người mà như chịu dầu sôi rót vào ngực…

Từ quỳ xuống, đưa hai tay đỡ mẹ:

– Mẹ !…Xin mẹ hãy tỉnh lại. Con đau ruột lắm rồi!

Mắt phu nhân vẫn hướng vào khoảng không. Những ngọn lửa cuồng dại nhảy nhót trong mắt bà:

– Kìa là cha con đang đếm, mắt sắp vuột ra khỏi mí. Này địa ngục Hàn băng. Này địa ngục Hắc ám. Địa ngục Kiếm luân. Địa ngục Tiêu nhiệt. Địa ngục Hoả xa. Địa ngục Phí sì. Địa ngục Lạm thang. ..Kìa địa ngục Hôi hà. Địa ngục Kiếm lâm. Địa ngục Thiết sàng. Kìa Đồng Trụ, này Thiết luân, Thiết quật, Thiết hoàn, Tiêm Thạch, ẩm đồng… Cha con đợi ngày những kẻ giết cha con bị đày vào đó tám trăm năm…

Bà bất chợt quay phắt lại, đổ vào người Từ Lộ, những ngón tay bấu chặt vai con, hổn hển:

– Đến khi oan khuất được minh bạch thì mới lên cõi Phật. Nếu không, phải xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ…

Hai bàn tay gầy mảnh của Từ Vinh phu nhân nghiến vào vai đau nhói. Sức mạnh mù quáng nào đó đã nhập vào tay bà. Từ đau đến chảy cả nước mắt, cố sức gỡ tay mẹ:

– Mẹ! Con lo việc trả thù cho cha. Xin hãy bình tâm lại!

Phu nhân bỗng ghé sát mặt cậu con trai, đăm đăm nhìn xói vào mắt, rồi phá lên cười, vồ lấy vạt áo cưới, lau lên mặt Từ :

– Con trai ta! Con trai của ta và Từ công.

Từ van vỉ:

– Mẹ! Cha đã mất rồi. Con chỉ còn có mẹ. Xin mẹ bình tâm, giữ gìn ngọc thể, con mới được phận nhờ…

Phu nhân oà khóc. Nước mắt bà rơi từng giọt nóng bỏng xuống vai Từ Lộ:

– Từ Lộ con! Người ta đi đầy đường kia! Người ta không đi xem đèn. Mà xem thi thể cha con trôi ngược trên sông. Ông lìa bỏ mẹ, đi rồi! Mẹ giữ lại không được. Hồn ông còn bận chầu chực bên cửa địa ngục. Người ta đi xem cha con chết. Nhưng mẹ không đi xem. Mẹ mặc áo cưới. Mẹ đứng ra đây cho

cha con tỏ, để ông biết dù âm dương cách trở, ta và cha con vẫn sắt son. Ta sẽ làm lại đám cưới cùng ông trước cửa điện Diêm vương.

Từ vén tay áo lau nước mắt cho mẹ:

– Được rồi, được rồi, mẹ! Cha con dù mất đi, vong hồn của người vẫn không xa lìa chúng ta…

Mặt Từ Vinh phu nhân tươi lên. Đã thấy có chút sinh khí:

– Vong hồn cha con phải được an ủi… Từ Lộ ! Thân mệnh của ta và con không phải của riêng chúng ta, mà của cha con.. Nay thân xác ở lại mà nửa hồn ta đã đi cùng cha con…!

Từ Lộ lại quỳ sụp xuống :

– Xin mẹ bình tâm. Giữ gìn ngọc thể. Thân này từ nay có sống trên đời cũng chỉ là để trả thù cha và đền bồi ơn sinh thành của mẹ mà thôi. Ngay ngày mai con sẽ tìm diệt Diên Thành hầu và Đại Điên….

Từ Vinh phu nhân đau đớn nhìn lướt từ đầu xuống chân con trai.

Bà giơ một bàn tay trắng muốt nổi đầy gân xanh tím, mười móng tay dài cong vút mấy ngày không được chải chuốt đã trở nên khô xác, nghiêm sắc mặt :

– Cạn nghĩ rồi. Nước còn có minh quân, còn có triều chính. Đức hoàng đế chí tôn đã đặt ra chín bậc phẩm quan tước. U tối ở chỗ này nhưng sáng láng ở chỗ khác. Lại còn đèn trời soi tỏ ở trên.

– Thưa mẹ, đèn trời không phải lúc nào cũng sáng. Nếu sáng, những kẻ như Diên Thành hầu đã không còn có ở trên đời này.

Giọng Từ phu nhân bỗng dưng sang sảng:

– Bình thường con quen đọc sách, chơi cờ, thổi sáo, sức vóc học trò sao địch nổi thủ đoạn của lũ ác tặc. Để tỏ nỗi oan cho cha, trừng trị lũ mặt người dạ thú, không gì bằng mẹ con ta kiện lên Đô hộ phủ ngục tụng, nhờ quan Đô hộ tra xét rõ sự việc, buộc kẻ gieo ác phải bị trừng trị dưới lưỡi gươm công lý của đức hoàng đế. Như vậy mới giải được tận gốc nỗi oán thù này…

Từ Lộ ngập ngừng :

– Thưa mẹ, Diên Thành hầu thế lực chất ngất trùm thiên hạ….

– Con thật hồ đồ..! Đức hoàng đế là bậc minh quân. Người từng phá Tống bình Chiêm, định ra thi thư lễ nhạc, mở Quốc tử giám…Cớ chi một chuyện này người lại có thể không tra xét tỏ tường ?…! ” Thựơng bất chính hạ tắc loạn “. Hẳn Đức hoàng đế chí tôn hiêủ hơn ai hết !

Nghe mẹ nói, Từ Lộ chợt cất được gánh nặng.

Phải rồi, nước Nam ta từ thời Âu Lạc, qua ngàn năm Bắc thuộc, trải nhiều đời vua phải chịu hẩm hiu trong tước Giao Chỉ Quận vương mà các Hoàng đế Trung Hoa gia ân. Nay đương kim hoàng thượng lập nhiều võ công hiển hách. Nam, bắt vua Chiêm Chế Củ, thu phục Chiêm Thành, mở mang bờ cõi. Bắc, đem mười vạn quân phá Tống khiến triều đình bắc phương phải khiếp hãi, cắn răng ngậm nhục mà tấn phong Người tước Nam Bình Vương. Việc nông tang trong nước lựa bề sửa sang, dạy dân đắp đê Cơ Xá giữ cho đất kinh thành khỏi nạn ngập lụt. Bề trí đạo dùng lối khuyến dụ, mở khoa thi năm Â⬙t Mão chọn kẻ hiền tài đặt lên ngôi vị chăn dân. Năm Bính thìn xuống chiếu cầu lời nói thẳng, chọn người vào Quốc tử Giám. Năm Bính dần chọn người vào Hàn lâm viện, khởi sự Nho học để giáo hoá chúng dân. Năm Kỷ tỵ định quan chế, chia phẩm bậc ngăn nắp, dẫu rằng mô phỏng theo lối triều đình nhà

Tống, nhưng có công lớn trong việc khai hoá văn hiến nước nhà. Lại biết dùng những bậc siêu quần như Thái sư Lý Đạo Thành, Thái uý Lý Thường Kiệt…làm rỡ ràng nghiệp nước. Một nhà vô đạo như Diên Thành hầu nay còn được dung dưỡng chẳng qua là bởi đức hoàng thượng chưa tường tận, chưa rảnh tay cứu xét, trừng trị kẻ ác mà thôi…

Từ Lộ vội vào thư phòng của cha, lấy nghiên mực ngọc thạch có khắc sâu hai chữ ” Quần sư ” để lại từ thời ông nội chàng, một vị túc nho uyên bác, từng có hàng trăm học trò đến quỳ gối trước ngưỡng cửa thỉnh giáo. Chàng vén tay áo cầm cây bút lông ” Cảo di “. Và cái chết oan khuất đau đớn của cha chàng trào ra theo ngọn bút, phủ kín tấm lụa bạch.

Khi treo lên miếng lụa lên trước gió đợi ráo mực, Từ Lộ giật mình. Trước ánh sáng nhập nhoạng buổi chiều , trông nghiêng nét mực hăng hăng đỏ như màu máu khô.

*

* *

Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh ra công đường.

Ngài vừa nhậm chức thay người tiền nhiệm tên là Phụ Quốc, người Aí châu, vừa bị biếm. Phụ Quốc vốn xuất thân con nhà nghèo, thuở thiếu thời làm nghề chài lưới trên sông Mã, từng dũng mãnh bắt được kẻ cướp cá ở chợ giao nộp nhà chức trách. Lớn lên sung quân, nổi tiếng gan dạ. Đóng khố cởi trần bôi nhựa cây vào người, cầm đục lặn xuống sông đục thủng thuyền giặc. Lập võ công hiển hách trong cuộc chiến phá Tống trên sông Như Nguyệt, Phụ Quốc được vua yêu vì. Đến khi ông ta bị thương hỏng một mắt, không thể tham gia chiến trận, vua bèn cất nhắc vào chức Đô hộ phủ ngục tụng, mong ông ta lấy cái dũng khí trong chiến trận ngày trước, đem vào việc minh định rõ những vụ oan án, ngõ hầu yên dân.

Ngày đầu tiên nhậm chức, trông thấy công đường với chiếc án thư sơn son thiếp vàng sáng chói, hàng đống giấy tờ sách vở chất ngất, quân lính cầm giáo đứng canh hàng lối nghiêm ngặt, Phụ Quốc hoảng sợ, quỳ xuống lạy như tế sao :

– Tâu bệ hạ, con vốn người ít chữ, chỉ quen nghề chài lưới trên sông. Hỏi khúc sông nào có cá thì con biết, chứ hỏi ở đâu có oan án thì con làm sao biết? Nay bệ hạ muốn thưởng công con, xin người cứ cho cấm hẳn một khúc sông cho con, kẻ khác không được chài lưới ở đoạn sông đó, thế là may phúc cho con lắm!

Vua nghe, cả cười, mà rằng:

– Cái thằng Phụ Quốc này mới thật thà làm sao! Ta yêu chính cái ngây ngô của nhà ngươi đó. Cứ vững dạ làm Đô hộ phủ ngục tụng . Chuyên tra xét các án đã có bọn tay chân giúp rập. Lũ mọt sách đó học hành bao nhiêu năm là để cho ngươi sai phái đó. Ta cần một kẻ thật thà dũng mãnh như ngươi, để bọn cường hào ác bá, bọn quý tộc trong triều không thể cậy quyền cậy thế lo lót làm loạn phép nước. Phép nước đã loạn, ta làm sao giữ được sự nghiệp của tiên đế?

Phụ Quốc càng hoảng sợ:

– Tâu hoàng thượng, con chỉ mê thích những khúc sông lắm cá. Thường nhật, nhìn qua màu nước sông hồ cũng có thể nói ngay nơi nào nông nơi nào sâu, lắm cá ngão hay cá chép. Nay hoàng thượng buộc con phải kề cận bọn mọt sách, hai bên vốn chẳng ưa nhau, chẳng qua chỉ làm cho con thêm khó xử trước chúng mà thôi.

Vua càng cả cười, càng lúc càng tỏ ra vui thích:

– Ngươi nên nhớ, khi ngươi là kẻ bề trên, lệnh của ngươi là tối thượng. Kẻ nào bất tuân thượng mệnh, nhẹ thì roi gậy, nặng có thể chém đầu, cứ theo hình luật mà giữ phép nước. Đã thế, làm gì có kẻ mọt sách nào dám lấy vài bồ chữ mà giỡn cợt ngươi. Ta cất nhắc ngươi không phải chỉ do yêu vì ngươi. Đã có hai tên quan tiền nhiệm trước ngươi bị biếm truất làm thứ dân do nhận vàng của một gã phú hào để chuyển từ án giết người sang tha bổng rồi đổ tội cho kẻ khác. Than ôi! Trị nước khó thay. Ta có vô số những chiến binh dũng mãnh, sẵn sàng xông pha nơi mũi tên hòn đạn, đứng trước hiểm họa da ngựa bọc thây chẳng từ nan. Vậy mà tìm được một kẻ làm chức Đô hộ phủ ngục tụng sao khó đến vậy!

Thế là Phụ Quốc nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng. Những ngày đầu, ông ta buồn chán, thường trốn ra bờ sông Cái, ngắm những ngư dân buông chèo thả lưới trên sông cho đỡ nhớ nghề, lắm khi nước mắt chảy ròng ròng trên má. Bọn thư lại thường phải đi tìm, lựa lời khuyên giải.

Được ba tháng, Phụ Quốc không ra sông nữa, dần quen công việc, quen với chiếc án thư sơn son thiếp vàng và biết sai bảo lính tráng, kẻ hầu người hạ. Tại chức được hai năm, Phụ Quốc có thêm ba trăm mẫu ruộng tốt. Được bốn năm, ông ta thay ngôi nhà đang ở bằng một biệt lâu lộng lẫy, có hào nước cắm chông bao quanh, có quân lính cung nỏ tua tủa đứng gác . Lối dẫn vào biệt lâu là một chiếc cầu ghép bằng đá hoa cương màu đỏ. Trong nhà, tầng trên nuôi con hát, tầng hầm nhốt những kẻ tội đồ.

Trong đám lính canh có đứa nhẹ miệng kể rằng, ban ngày, trước cửa công đường của quan Đô hộ phủ nườm nượp người nghèo hèn áo vá đến kêu oan. Kêu thì có kêu nhưng oan thì không thấy giải được. Quan Đô hộ chưa nghe tâu bày đã quát tháo. Có kẻ yếu bóng vía sợ vỡ mật mà chết. Kẻ nào khôn ngoan hơn muốn mau được xét đơn, phải ngầm đút lót cho lũ thư lại. Những kẻ có máu mặt thì không đến ban ngày. Đêm đêm, ngựa xe nườm nượp đến viếng thăm biệt lâu. Chủ nhà ngồi xổm, mười ngón chân như móng chân con gà đang đậu trên cành, quặp lấy mép chiếc đệm da cáo trên chiếc kỷ cẩn vàng trong nhà, nghe tiếng chân bước trên cầu đá mà định lễ đón khách .

Khách, trước khi đến, đã tìm biết tường tận sở thích của chủ. Trong nhiều món lễ vật, nhất thiết phải có con gà chọi thiện chiến. Một đôi gà chọi thiện chiến có thể ân giảm được một năm tù cho người thân của khách. Trong ba năm Phụ Quốc làm Đô hộ phủ ngục tụng, giá gà chọi trong kinh thành tăng vọt. Ông ta kén tới mười kẻ thạo việc chuyên chăm sóc và luyện gà chọi sao cho mỗi trận chọi nhau là một cuộc huyết chiến. Khách đến nhờ cậy thường lấy cớ muốn đến xem chọi gà, ở lại với gia chủ, lặng lẽ đặt vào chiếc đĩa vàng của ông ta một hạt trân châu hoặc một vài thoi vàng. Hôm nào gà chọi hay, chủ cao hứng bày tiệc thết khách, cho con hát múa may uốn lượn làm trò vui. Khách cao hứng, có thể chọn con hát mà ngủ lại, miễn là biết điều lặng lẽ để thêm lễ vật vào chiếc đĩa vàng. Nhưng hôm nào gà chọi dở, Phụ Quốc tức giận

gầm thét, hồng hộc lao xuống tầng hầm nhốt những kẻ bị tội, trở ngược cán giáo đánh đến nát lưng cho hả giận. Đôi khi, xác những kẻ xấu số được ngầm đưa ra quẳng xuống sông Cái vào lúc nửa đêm để phi tang.

Việc Phụ Quốc có nhà nuôi con hát, chuồng lớn nuôi gà chọi, tự tiện giết người , cả thiên hạ đồn thổi, nhiều quan lại trong triều biết, trong lòng tức giận nhưng biết vua yêu vì Phụ Quốn nên không dám tố giác. Phụ Quốc thả sức ăn chơi, giàu có ức vạn, mỗi khi tra xét một vụ oan án thì lại gieo tiếp những oan án khác. Nếu không vì một kẻ thuộc hạ, vốn được Phụ Quốc giao trông coi hầm nhốt người, do bị chủ phạt đánh đòn mà chạy ra tố cáo với Thái sư Lý Đạo Thành, Phụ Quốc sẽ vẫn còn được yên lành. Lý Đạo Thành nghe, thất kinh mà nói” Ta đã đoan chắc rằng gã đánh cá này không đảm đương nổi. Nhưng lại đổ đốn đến mức này ư?”. Lý Đạo Thành cải trang đi dò biết thực hư, rồi cấp cấp vào triều tâu vua:

– Bệ hạ ! Đánh trận có thể chỉ cần dũng mãnh. Nhưng việc tra xét án đồ, định danh tội trạng thì phải là những kẻ có học, có liêm có chính. Viên tướng lập công trong trận mạc năm xưa, bây giờ tối tăm mặt mũi với uy quyền, đã trở thành yêu quái. Nếu bệ hạ không mau mau ra tay trừng phạt, e rằng nghiệp lớn của nhà Lý ta sẽ bị lung lay vì những kẻ càn rỡ như Phụ Quốc…

Vua cau mày, tỏ vẻ không thích, nhưng biết nghe lời phải của Thái sư. Sáng hôm sau liền dẫn một đoàn tuỳ tùng đến biệt lâu tra xét, thấy cái lầu nuôi con hát và dãy chuồng chạm trổ bằng gỗ lim nhốt tới vài trăm con gà chọi thì đùng đùng nổi giận, cho đập phá biệt lâu, thả hết gà chọi, thích chữ trên mặt các con hát rồi trả về các lầu xanh. Phụ Quốc bị biếm truất đi làm lính canh áp giải những kẻ tội đồ bị đày lên châu Quảng Uyên .

Cái hoạ bất ngờ của người tiền nhiệm lại khiến Trần Dĩnh được thăng trật trước niên hạn, được chuyển về nội kinh. Vốn dòng dõi thi thư nho nhã, Trần Dĩnh đã đọc nhiều sách, tốn nhiều bút mực viết những áng hùng văn nhiệt huyết bàn luận về cái đức và hành xử cuả một bậc chính nhân quân tử. Khi đương chức tại hạt Hải Dương, ông từng thẳng tay trừng trị nhiều kẻ cường hào ác bá cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lành. Nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, Trần Dĩnh được bệ rồng biết đến và được vời về kinh nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng vừa khuyết. Trần Dĩnh nghĩ rằng đó là một cách đấng chí tôn tưởng thưởng cho sự trung chính của ông. Khi được vua vời vào triều để ban chức, Trần Dĩnh vô cùng phấn chấn, ngửa mặt lên trời xanh :

– Thân này xin được trọn đời làm khuyển mã, mong lấy gan óc lầy đất để trả lại sự công bằng cho đám lê dân.

Nghỉ ngơi vài ngày, thu xếp chỗ cư ngụ cho tư gia, Trần Dĩnh ra công đường.

Trên chiếc án thư, một chồng đơn chất ngất phủ bụi, cao ngang mày đang náu mình chờ ngài tự bao giờ. Ngài cau trán. Chẳng lẽ ở chốn gần mặt trời mà cũng có nhiều nỗi uẩn khúc oan khiên thế này ? Ngài lướt đôi mắt sắc sảo ra ngoài cửa quan. Một dẫy người đứng ngồi lổm ngổm, đa phần là quần nâu áo cộc tím tái trong tiết trời ẩm lạnh và cơn mưa phùn lay phay của độ lập xuân. Chỉ còn thấy cặp mắt quầng thâm tụt vào trong hốc mắt trên những gương mặt xanh xao má hóp đang khắc khoải nhìn vào chốn công đường.

Quan Đô hộ phủ ngục tụng vươn người nhìn cho rõ hơn. Đứng đầu đám thứ dân kia lại là một thư sinh. Gương mặt tuấn tú của chàng trai khuất một

phần dưới chiếc khăn ngang. Sợi dây chuối thắt ngang lưng áo sô gai. Tay chàng đỡ một người đàn bà. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà này đầu đội khăn tang mà mình lại mặc áo cưới. Là kẻ điên hay người tỉnh ?

Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh lật từng tờ đơn theo thứ tự từ trên xuống dưới, soi tên từng nguyên đơn. Ngài thở dài. Lại vẫn giống như ở hạt Hải Dương, chín phần mười số đơn là kiện cáo chuyện cường hào ác bá quan lại cậy quyền ỷ thế chiếm ruộng cướp trâu cưỡng đoạt con gái nhà lành.

Trong vô số những lá đơn, ngài để ý đến một xấp mười hai lá đơn của cựu Tăng đô án Từ Vinh khiếu tố lên đấng cửu trùng về việc Diên Thành hầu cưỡng chiếm hơn hai trăm mẫu đất của nhà chùa và dân vỡ hoang phía bắc hồ Dâm Đàm, cận kề ngay cửa ngõ kinh thành. Ngài chú ý thấy ở góc mười hai lá đơn đó đều có dấu khuyên của cựu Đô hộ phủ ngục tụng Phụ Quốc với chữ đề ” Hồi ! “. Quan tân Đô hộ phủ ngục tụng sửng sốt quay hỏi người thư lại đứng hầu bên bàn :

– Nhà ngươi có tường tận vụ này không ?

Viên thư lại ý tứ :

– Dạ bẩm…Xin thượng quan tha tội..Chẳng lẽ ngài không hay biết gì về chuyện cái thây dựng đứng ba ngày đêm trước cửa lầu Diên Thành hầu ?

– A…ta có nghe . Tăng đô án Từ Vinh là thầy ta. Thầy ta chết tức tưởi …Nhưng có liên quan gì đến việc này ?

Trần Dĩnh đặt bàn tay lên chồng đơn tố giác mang tên cựu Tăng đô án Từ vinh. Ngài như cảm thấy những nét chữ cứng cỏi của người đã khuất xôn xao nhồn nhột dưới bàn tay.

– Thưa…Người đã chết thì dẫu có minh oan cũng chỉ để cho giun dế dưới mồ nghe tiếng. Xin ngài cẩn trọng. Vợ con cựu Tăng đô án Từ Vinh đang đội đơn đứng chờ ngoài kia đã ba ngày nay.

Trần Dĩnh giật nảy người :

– Đâu ? Tại sao nhà ngươi không nói trước. Mau cho mời vào !

Viên thư lại thong thả bước đến trước mặt Từ Lộ và Từ Vinh phu nhân, khoát tay ra dấu mời vào.

Từ Lộ dìu mẹ vào công đường, chắp tay thi lễ trước mặt tân quan Đô hộ phủ ngục tụng.

Trần Dĩnh lật đật đứng dậy, bước tới đỡ Từ Vinh phu nhân:

– Hạ quan từ hạt khác được thánh thượng gia ân cho chuyển về kinh thành nên không hay biết phu nhân và công tử hạ cố tới công đường. Xin thứ cho hạ quan tội thất lễ ! Hạ quan xưa là học trò của cố quan Tăng đô án vừa sớm xa chơi nơi cực lạc. Nghĩa thầy trò thiêng liêng bền chặt, hạ quan không bao giờ quên…

Trần Dĩnh đưa tay áo thụng gạt nước mắt.

Từ Lộ nhìn quanh. Chàng không ngờ có ngày mình lại phải bước tới chốn này. Chồng đơn cao chất ngất trên chiếc án thư lầm lì giữa công đường và những lính hầu câm lặng mặt sắt lại cùng những đồ nghi vệ sáng choang đủ sức làm khiếp vía bất kỳ kẻ nào không may mắn đã đặt chân đến đây.

Từ Lộ nhớ, tại phủ Tăng đô án của cha chàng trước đây, có lần vãn việc, hai cha con từng ngồi trò chuyện. Lúc cao hứng, cha còn bảo chàng tấu lên vài điệu sáo. Nghe tiếng sáo của chàng, có lần ông nói : ” Được. Nhưng tiếc

rằng thanh âm chưa tròn đầy. Còn chút uỷ mị. Phần âm quá dầy mà phần dương lại mỏng. Con ta còn cần gắng sức. Xưa nay phàm con người ta yêu thích điều gì thì lượng mạnh yếu, mỏng dầy của điều đó cũng thường vận vào số phận của kẻ đa đoan…”.

Chàng nhớ, lúc đó, khi lời cha vừa dứt, một cơn gió nửa nóng nửa lạnh bỗng từ đâu thổi tới, mang mùi hăng tanh của dòng nước tù đọng khiến chàng rùng mình. Chàng hỏi:

– Thưa cha! Gần đây, cha có điều gì không vui chăng?

Cha chàng cố nở một nụ cười, mép ông hằn những vết nhăn chua chát:

– Con ta quả là tinh mắt. Trong những ngày này , ta thấy buồn nản rã rời!

Từ ngạc nhiên:

– Vì sao, thưa cha? Cha làm Tăng đô án, cai quản ngàn vạn tăng ni. Đức vua sùng Phật. Cả nước cũng sùng đạo. Cha được trọng vọng, phúc lộc vua ban đủ chi dùng dồi dào…

Cha chàng ngắt lời:

– Con nói phải. Ta làm Tăng đô án. Kể ra thì đắc thời. Mấy chục năm nay, các đế vương triều Lý ai cũng dốc lòng thờ Phật. đức Thái tổ xưa, mới lên ngôi hai năm đã cho dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, trùng tu chùa quán ở các lộ , riêng ở kinh sư đã độ cho làm tăng tới cả ngàn người. Tới thời vua Thái tông, Thánh tông và đương kim hoàng thượng ta, chùa quán càng được xây đắp bồi bổ nhiều khôn xiết.

Mắt sáng rực, Từ hớn hở tiếp lời:

– Vâng, thưa cha, sử sách ghi lại, từ thời đức Thái tổ mới lập nghiệp, đã có tới gần nửa dân đi làm sư sãi…

Từ Vinh xua tay, lắc đầu chán ngán:

– Phải. Đám dân chúng khoẻ mạnh còn lại không làm sư thì đi lính. Bao nhiêu tiền của sức dân đều được vét sạch để xây chùa quán, nuôi sư sãi, nuôi quân và chế tác khí giới đánh giặc . Ngay trong đám tăng đạo cũng có nhiều kẻ đục nước béo cò, lời dụng thời thế, tín ngưỡng của dân mà tranh thủ trục lợi,” miệng Nam mô bụng bồ dao găm”, lại chia bè phái, dùng tà đạo để ám hại lẫn nhau. Ta thấy nhục nhã vì không trừ diệt được tính tham ác ngay trong đám tăng lữ mà ta cai quản. Đã thế, mỗi lần bê bát cơm lên ăn, ta như nghe thấy tiếng nói vẳng lên từ đáy bát: ” Chúng tôi đói! Chúng tôi đói!”. Sao có thể không đắng miệng!

Từ đăm đăm nhìn cha. Từ lúc mới sinh ra, được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, mọi thứ đều có sẵn, chàng không bao giờ biết đến nỗi khổ sở của đám lê dân ngoaì kia và bầu tâm sự của cha.

Cha chàng lại nói:

– Càng ngày, ta càng thấy mình như kẻ sống thừa. Biết tất cả mà chẳng làm được gì cho thiên hạ. Chỉ một việc phải trái rõ như ban ngày mà viết đến mười hai lá đơn, gửi lên Đô hộ phủ ngục tụng và đức vua, những mong giúp vua phân định kẻ có tội, ngõ hầu yên dân, vỗ về xã tắc. Nào ngờ, những lá đơn rút từ máu huyết của ta lại gửi vào tay một kẻ chuyên lấy việc vét máu mỡ của dân làm trò tiêu khiển…

Cha bước ra khép cửa, buông mành. Gáy ông trĩu xuống dưới búi tóc đốm bạc …

Ngồi trước công đường, mà giờ đây trước mắt Từ Lộ như đang đung đưa búi tóc bạc xơ xác vì buồn nản của cha. Nhìn mẹ, người đàn bà quý phái chỉ mới ba ngày sau khi cha mất đã rộc rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, cũng phải đội đơn quỳ trước công đường, trước mặt một đứa học trò cũ của chồng, Từ Lộ càng bội phần xót xa. Cái phận tôi đòi đội đơn thưa kiện này trước đây không dành cho mẹ con chàng.

Trần Dĩnh quát lính hầu pha trà nước mới, ân cần hỏi han sức khoẻ và gia cảnh mẹ con Từ Vinh phu nhân. Nhưng Từ Vinh phu nhân hầu như không nghe thấy gì. Đôi mắt bà nhìn về phía quan Đô hộ phủ ngụ tụng vừa sắc nhọn như ánh kim ánh thép, vừa xa vời, mờ ảo như có sương có khói. Giọng nói cũng như vẳng lên từ một cõi sâu thẳm xa xôi nào :

– Thưa thượng quan …Thượng quan mới chuyển về ngồi tại phủ này, nhưng chắc người cũng đã nghe biết nỗi oan khuất của gia đình chúng tôi. Mẹ con tôi đợi trước cửa ngài đã ba ngày nay…

*

* *

Trần Dĩnh chong đèn ngồi trước án thư tới tận canh ba. Ngài đọc đi đọc lại mười hai lá đơn của Từ Vinh để lại trước đây và lá đơn mới viết ướt đẫm nước mắt mà mẹ con Từ Vinh phu nhân vừa đệ lên cách đây nửa tuần trăng. Cả hơn chục ngày nay, ngài đã cho sai nhân đi tra xét ngọn ngành mọi việc liên quan đến những điều được ghi rõ trong mười ba lá đơn.

Lúc này, cái chết oan nghiệt của Từ Vinh đã hiện lên rành rõ trước mặt ngài giữa những dòng chữ. Và tất cả đều gắn với một cái tên Diên Thành hầu. Quan Đô hộ phủ ngục tụng tự hỏi mình có nên tâu lên đấng cửu trùng về những tội ác của cha con Diên Thành hầu? Mười hai lá đơn của Từ Vinh đã bị người tiền nhiệm ách lại dưới bốn chân lầm bụi của án thư này. Không rõ trước đây Phụ Quốc đã đệ lên đức hoàng thượng chưa? Diên Thành hầu lại là hoàng thân, nếu ta tâu trình vạch tội, không biết hoàng thượng có muốn nghe? Nếu có nghe, không chắc ta đã thoát những ngón đòn hiểm của Diên Thành hầu. Cái chết của Từ Vinh là một tấm gương tày liếp. Diên Thành hầu giết Từ Vinh mà vẫn vô can, bởi ông ta mượn tay pháp sư Đại Điên.

Ba đêm liền, Trần Dĩnh băn khoăn tự hỏi. Nhìn thấy vợ và năm đứa con, ngài xót xa nghĩ, nếu ta có mệnh hệ gì, vợ con ta sống ra sao ? Làm vợ , làm con của một ông quan thanh liêm đã là khổ, nếu làm vợ goá con côi của một ông quan dám vuốt râu hùm, dám đụng đến thanh danh của hoàng tộc, lại càng nguy nan. Trứng chọi đá. Liệu ta có nên đẩy vợ con vào cái khổ nạn đó?

Nhưng đức hoàng thượng đưa ta từ hạt Hải Dương về đây, bổ ta giữ chức này, là bởi người biết ta xưa nay luôn giữ được lòng trung thành ngay thẳng. Ta không thể phụ lòng người. Diên Thành hầu là hoàng thân quyền thế, Nhưng Đức hoàng thượng là bậc minh quân ân đức đã trùm thiên hạ.

Bây giờ, biết đâu với cái chết oan khốc của chính Tăng đô án Từ Vinh, lại là dịp những tấu thư này như một ánh chớp xé rách cái màn đen đặc sệt bao trùm, vượt qua tầng tầng phủ đệ mà lay động tới đấng cửu trùng ?

Trong lòng Trần Dĩnh bỗng ngùn ngụt cháy ngọn lửa chính trực. Hàng vạn dân đen con đỏ đang ngày đêm mòn con mắt trông đợi ngọn bút của ngài. Nếu phá được vụ án Diên Thành hầu, kỷ cương trong nước sẽ được lập lại. Những kẻ quan lại chuyên ức hiếp dân lành, toan dùng một bàn tay che khuất mặt trời sẽ lấy đó làm sự răn đe mà chùn tay. Rường mối quốc gia nhờ sự công bằng minh định thì mới được vững chãi. Trần Dĩnh như thấy trước mắt vong linh của người thầy đang ngậm oan đứng đỏ mắt chầu chực bên cổng địa ngục. Rưng rưng muốn khóc, lòng đầy cảm khái vì đất nước, Trần Dĩnh cả quyết với tay lên giá bút.

Trống điểm canh ba vừa dứt thì tờ tấu của quan Đô hộ phủ ngục tụng cũng vừa ráo mực. Ngài tự tay cuộn tờ tấu lại, cẩn trọng cho vào ống quyển chờ sáng sớm mai sẽ giao cho thư lại chuyển lên Tam pháp ty để đệ trình đức vua Nhân tông. Trong lòng ngài nhẹ nhõm, khoan khoái, tưởng như cất được gánh nặng đè trĩu trên vai từ bấy lâu. Ngài tự hài lòng với mình, phóng bút viết một đại tự lớn , sai gia nhân lồng khung bạc, treo lên giữa công đường. Nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là chữ ” tâm”.

*

* *

Giờ mão .

Quan đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh chưa tỉnh giấc thì đã có gia nhân vào bẩm có người của phủ Diên Thành hầu đang chờ trước cửa. Trần Dĩnh ngạc nhiên, hơi khó chịu, nghĩ ” Bắt đầu rồi đây !”. Diên Thành Hầu cho người đến sớm thế này làm gì nhỉ ? Hẳn rằng ông ta sẽ dùng uy lực doạ dẫm ? Lời nói của Diên Thành hầu là lời sấm lời sét giữa triều đình. Ông ta không những quyền cao tước lớn, mà còn là nội thân với đức đương kim hoàng thượng. Trần Dĩnh hơi lo, nhưng nghĩ lại, trước những cuộc duyệt quân ra trận, tại các hội thề, trước công đường, bao giờ đức vua cũng nêu cao năm đại tự : ” Quân pháp bất vị thân”. Hẳn rằng sau khi đọc biểu tấu của Đô hộ phủ ngục tụng, hoàng thượng sẽ có phán xét. Nghĩ thế, Đô hộ phủ Trần Dĩnh thong dong búi tóc sửa khăn rồi lệnh cho gia nhân mở cưả mời khách vào.

Khách là một người trạc tuổi trung niên, quần là áo lượt khăn nhiễu tím, thoạt nhìn cũng biết ngay là thuộc loại người chạy việc trong các phủ đệ lớn ở kinh thành. Khách mang theo hai lực sĩ mặc nhung phục,mặt mũi xấc xược, trên đầu mỗi người trĩu nặng một mâm đồng phủ nhiễu đỏ. Khách thong dong bước một, cười nửa miệng tiến đến trước mặt Trần Dĩnh. Ghé tai nói nhỏ :

– Quan Đô hộ phủ mới đến chưa tường mọi tục lệ của đất kinh thành. Diên Thành hầu chủ nhân sai tôi đến truyền lại với ngài đôi điều…

Trần Dĩnh không giấu nổi tức giận :

– Ta dù lạ nước lạ cái nhưng luật lệ triều chính thì ở nơi nào cũng vậy… Điều này, chí ít thì ta cũng đã được vỡ lòng trước khi dám chìa tay nhận ấn tín vua ban..

Không biến đổi sắc mặt, khách cười nhạt :

– Kẻ này dám dám đoan chắc với quan Đô hộ phủ rằng chỉ một tuần trăng nữa ngài sẽ lại nói khác…

– Khác cái gì ?- Trần Dĩnh dằn giọng.

– Sẽ khác !

Không mềm giọng, khách quay lại bảo hai lực sĩ:

– Bay đâu…Đặt lễ !

Hai lực sĩ nhất loạt đặt mâm lên án thư giữa nhà. Khách đủng đỉnh chỉ dùng hai ngón tay dài màu ngà voi xương xẩu gẩy nhẹ mảnh lụa điều phủ trên mâm. Trần Dĩnh giật mình, mắt nổ đom đóm. Vô số thoi vàng chói lọi bất ngờ hiện ra như phù phép. Cả đời ông chưa bao giờ trông thấy nhiều vàng đến như vậy. Những thoi vàng mượt óng, ngon lành, nằm hiền hoà như vô can trên mâm đồng. Năm gian nhà ngói, ba gian nhà ngang. Vài mươi mẫu ruộng. Tất cả tài sản của ông không chắc bằng một phần mười số vàng đang để trên mâm kia.

Khách dạng rộng hai chân, cứ đứng sừng sững ngắm quan tân Đô hộ phủ. Rồi nhìn tận mặt, nhếch mép cười nói :

– Có khi nào quan Đô hộ phủ tự hỏi, nhờ đâu mà đấng Cửu trùng biết tới ngài. Nhờ đâu mà ngài từ hạt Hải Dương xa xôi hẻo lánh lại bỗng được về ngồi tại phủ Đô hộ cao rộng nhường này giữa đất kinh kỳ ? Diên Thành hầu chủ nhân tôi còn mong được che chở cho quan ngài về sau. Hoạn lộ còn dài…! Chỉ lưu ý ngài một điều : Ngài được tiếng là thanh liêm, thường ra tay cứu giúp lê dân. Nhưng, xin hãy ngẫm cho kỹ. Dân đen chỉ là cây cỏ. Khi gặp mưa to gió lớn, cây cỏ thấp lùn không bao giờ làm được chỗ tựa cho một bậc quân tử. Ngài là cây lớn. Cây đừng tưởng lớn mà không có ngày đứt rễ. Cây muốn sống, phải dựa vào tường chắn gió. Vậy, Diên Thành hầu chủ nhân tôi chính là bức tường ấy đấy…

Không chào, khách khoát cửa tay áo lụa bước nhanh ra ngoài.

Quan Đô hộ phủ giận dữ gọi với theo. Nhưng khách cứ rảo bước không ngoái lại. Trần Dĩnh nổi trận lôi đình chỉ tay vào mặt hai gã lực sĩ vẫn còn đang đứng đó :

– Mang ngay vàng này đi cho khuất mắt ta !

Hai gã lực sĩ không thèm ngước nhìn Trần Dĩnh, mặt càng lầm lì. Gã bên tả bước lên một bước, tay nhặt chiếc khăn lụa đỏ vừa đậy trên mâm vàng. Chỉ thấy giải khăn bay loang loáng hoa cả mắt. Trong tay gã, chiếc khăn đã biến thành một giải thòng lọng. Gã lại khinh khỉnh đặt sợi thòng lọng lụa đỏ lên mâm vàng. Trước khi bước qua bậc cửa, gã còn quay lại cười khẩy, lướt ánh mắt sắc như lưỡi đao qua khuôn mặt đỏ phừng và đôi bàn tay run rẩy của quan Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh.

*

* *

Mười ngày sau.

Trát của phủ Đô hộ ngục tụng về nhà Từ Lộ vào chạng vạng tối.

Mẹ con Từ Lộ đang ngồi trước mâm cơm. Trên bàn thờ Từ Vinh những chân hương đang cháy đỏ. Bát cơm quả trứng đặt chênh vênh trên đôi đũa tre cắm chéo. Món quà muôn thuở cho người đã khuất hắt lên ánh sáng mờ đục lạnh lẽo khiến cho ngôi nhà càng thêm âm u tang tóc.

Từ Vinh phu nhân hồi hộp nhận tờ trát từ tay người lính phủ. Vừa đọc được những dòng đầu tiên, phu nhân lẩy bẩy quay nhìn lên bàn thờ chồng. Một khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên phu nhân nấc nhẹ lên một tiếng từ trong đáy cùng của cổ họng rồi toàn thân bà đổ vật xuống trước bàn thờ chồng.

Từ Lộ hoảng hốt một tay đỡ lưng mẹ một tay nhặt tờ trát. Những dòng chữ lạnh lùng tàn nhẫn cũng làm chàng sa sẩm mặt mày không kém. Quan Đô hộ phủ ngục tụng xuống trát rằng đã tra xét đơn của mẹ con chàng. Mẹ con chàng bị khép vào tội vu cáo cho nhà Diên thành hầu. Tội nặng đáng phải nghiêm trị. Nhưng vì xét công lao của Tăng đô án Từ Vinh đã khuất bóng nên vợ con được miễn hình ngục. Chỉ bị cách xuống làm thứ dân và bị tịch biên gia sản .

Từ Lộ ngước nhìn . Những tia nắng vàng vọt cuối cùng của hoàng hôn dọi vào bàn thờ thanh một đám đỏ như máu, khẽ run rẩy rồi lụi tắt. Chuông thu không thong thả nhểu từng giọt buốt lạnh vào thinh không. Ngoài ngõ quan quân và chức dịch lăm lăm roi vọt giáo mác đi lại rậm rịch như đàn voi ngựa. Đằng sau những chiếc xe quây cót lớn chờ tịch biên gia sản nhà chàng, ngất nghểu bóng áo tía diêm dúa và nụ cười đắc ý của Lý Câu trên chiếc song mã mỹ miều đã đạp nát chiếc đèn lồng ” Mỹ nhân” trên cầu Tây Dương trong đêm Nguyên tiêu.

Trên tay Từ Lộ, mẹ chàng trút hơi thở cuối cùng.

———————————-

Phần 4

 

Không mưa. Không mây. Giao trì yến.

Từng cánh bích đào rụng lạng hoàng kim điện

Rèm châu nửa cuốn hương trời

Khúc nhạc nổi tiếng thường được tấu lên trong cung của Hoàng đế nhà Tống rộn ràng ngân trên những còn đường đất lỗ chỗ vết chân trâu bên bờ sông Nhuệ. Tiếng kèn, tiếng tỳ bà, tiếng ngũ huyền cầm, tiếng đàn tranh réo rắt pha lẫn tiếng sênh rộn ràng làm náo động cả một vùng. Trên con đường dẫn vào làng Nha Thượng bên bờ sống Nhuệ nước sông in bóng một đoàn người xiêm áo sặc sỡ rồng rắn kéo nhau đi làm đỏ cả một khúc sông. Dẫn đầu đoàn người là ông mai bà mối áo vóc hồng miệng bỏm bẻm nhai trầu mắt lúng liếng như người trong cơn say. Tay ông mai bà mối nâng một giải lụa hồng bay phất phơ trong gió xuân. Mười hai cô gái thanh tân môi hồng đào răng đen nhức áo tứ thân cổ viền trắng uyển chuyển đội trên đầu mười hai cỗ quả sơn son thiếp vàng. Những mái tóc buộc túm cao trên đỉnh đầu cài trâm sừng trạm bạc hình chim phượng khiến đuôi tóc xoè ra như những đuôi công. Họ bước đi như múa trong tiếng nhạc thảy ra từ ngón tay của mười hai nhạc công trong giáo phường đang mải miết búng trên đàn sáo. Gío rung rặng ổi ven sông Nhuệ rắc những cành hoa trắng muốt của mùa xuân trên vai trên tóc đoàn người.

Công tử Lý Câu xuống ngựa. Hai tiểu đồng để tóc trái đào cúi khom lưng nhấc vạt áo thụng xanh chùng quết đất để lộ dáng hài mũi cong có đính những hạt minh châu màu hồng. Một tiểu đồng áo đỏ đang đứng đằng sau vội bước lên phía trước, hấp tấp quỳ dâng trước mặt công tử một bộ điếu bát khảm vàng với chiếc điếu là đoạn trúc ngà cong vút. Một tay tựa vai tiểu đồng một tay Lý Câu xoè ra vít ống điếu. Tiểu đồng tra thuốc lào vào nõ điếu rồi quay mặt che người chắn gió thận trọng kéo bùi nhùi châm lửa. Lửa từ chiếc đóm vừa bén vào dúm thuốc lào vàng rộm, Lý Câu ghé miệng ngậm lấy ống điếu rồi chúm môi như trẻ con mút vú mẹ. Tiếng rít qua nõ điếu tanh tách vang giòn. Lý Câu khoan khoái vươn cổ ngửa mặt lên trời. Từng cụm khói màu trắng nối nhau phun ra khỏi miệng công tử. Một chén ngọc nước chè mạn đã được tiểu đồng rót sẵn trên tay tiểu đồng để công tử chiêu cho ngọt giọng.

Xong đâu đấy, công tử oai nghiêm phất tay áo rộng. Đàn sáo lại vang lừng. Đoàn người sặc sỡ nối nhau nhịp nhàng chuyển bước. Trao dây cương cho tên lính hộ vệ, Lý Câu xênh xang nhập vào đoàn người, đi cùng ông bà mai mối. Theo sau Lý Câu có bốn tiểu đồng khác lặc lè khiêng một thúng tiền đồng. Kèm bên thúng tiền là một bà già tóc bạc da hồng, mặt mũi phúc hậu, môi ăn trầu cắn chỉ, cứ hai mươi mốt bước lại sục tay vào vốc một nắm tiền tung hú hoạ lên đầu đám người hiếu kỳ kéo ra xem đông nghịt ven sông. Người lớn reo hò la hét tranh nhau nhặt tiền. Cứ mỗi lần như vậy, trên mặt Lý Câu lại giãn nở một nụ cười tự đắc.

… Mây xuân cùng trúc lẻ

Mềm mại hẹn cùng Tiêu Hán

Má hồng ngất ngây thanh thản…

Từ trong nhà, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh đã vẳng nghe tiếng đàn sáo rộn ràng từ xa vọng tới. Ông chậm rãi leo lên lầu ngóng đợi đoàn người đang đến làm lễ Đại đăng khoa cho Lý Câu và Nhuệ Anh con gái yêu của ông.

Ký ức những ngày qua dồn đập đổ về khiến lòng ông chua xót.

*

**

Bạn đồng liêu là Tăng đô án Từ Vinh bị người hại chết trong đêm Nguyên tiêu. Tôn Trinh buồn đau, bối rối. Nỗi oan trái của nhà Tăng đô án giáng lên đầu mẹ con Từ Lộ khiến cho tương lai tưởng đã rạng ngời của Nhuệ Anh bỗng sập tối như bị một đám mây đen phũ phàng che kín. Gia thế họ Từ không hẳn vào hàng đại phú nhưng nề nếp gia thư danh giá nổi tiếng khắp đất kinh kỳ, mà chỉ trong chưa đầy một tuần trăng đã tan nát. Bao nhiêu tài sản quý giá từ thời ông cha để lại nay như có chân chạy về nhà Diên Thành hầu và lũ tay chân nha lại. Từ Vinh phu nhân lìa đời. Từ Lộ bị khép tội vu oan giá hoạ cho hoàng thân nhất đẳng công thần Diên Thành hầu. Tội đáng xử trảm. May được ân vua mở lòng khoan thứ nên mới thoát chết. Không biết Từ công tử phiêu bạt nơi đâu. Nghĩ đến tình bạn và lời hẹn ước cũ, Tôn Trinh đã cho người bí mật đi dò tìm tông tích mong có thể giúp đỡ được phần nào chàng trai lúc hoạn nạn. Những người biết Từ Lộ đều quả quyết là chàng không đi đâu ra khỏi kinh thành. Tai hoạ giáng xuống, lòng quá đau đớn phẫn uất nên Từ chủ tâm lánh mặt mọi người mà thôi. Nhuệ Anh, sau khi Từ Lộ bỏ đi không thiết ăn uống, suốt ngày than khóc, ban đêm giam mình trong thư phòng với những vần thơ sầu oán bạc mệnh… Giữa lúc đó Diên Thành hầu sai người đến đánh tiếng mai mối Nhuệ Anh cho công tử Lý Câu.

Tôn Trinh chẳng ưa gì Lý Câu. Diên Thành hầu là bậc quyền thế thiên hạ, lời sấm giọng sét chỉ sau đấng chí tôn nhưng người kinh thành ai chẳng có lần truyền tai nhau về những điều mờ ám mà cha con ông ta đã làm. Chuyện cái thây Từ Vinh bỗng dưng trôi ngược trên sông, dựng đứng ba ngày ba đêm, tay cứ chỉ thẳng vào nhà Diên Thành hầu đã ám ánh Tôn Trinh. Đêm ông không ngủ, tâm trí không thoát ra được câu chuyện oan khốc nhà Từ Vinh. Ông ngờ vực mối liên quan giữa Diên Thành hầu và cái chết tức tưởi của người bạn đồng liêu. Ông biết Từ Vinh từng dâng lên đấng cửu trùng những tờ tấu tố cáo tội lỗi của cha con Diên Thành hầu, vì được che chở nên nên cha con nhà này vẫn vô sự. Công tử Lý Câu cũng không thèm giấu giếm sự tức tối và nhiều lần cho người giở giọng doạ cha con ông sau khi Nhuệ Anh khước từ lời cầu hôn của hắn, chỉ một mực trao duyên gửi phận cho Từ Lộ. Tai tiếng của công tử Lý Câu đã danh khắp đất này. Chưa qua hai mươi tuổi mà trong nhà công tử Câu đã nuôi một lũ nàng hầu con hát lả lướt khêu gợi đủ vẻ. Ấy thế mà ra đường gặp con gái nhà lành mặt mũi tươi tắn là lập tức cho gia nhân túm tóc lôi tay đưa về dinh thự ép chuyện mây mưa rồi mới thả. Nếu không phải là quý tử của Diên Thành hầu, hẳn giờ này Lý Câu đã nằm rũ trong lao kinh nội.

Trước đây, khi mai mối đến ngỏ lời dạm hỏi, Tôn Trinh đã uốn lưỡi khéo chối. Nại cớ tuổi Nhuệ Anh còn ít, nhà lại chỉ có một gái, nên chưa muốn xa con. Những tưởng khi mai mối ra khỏi cửa là chuyện đã xong. Nhưng tới tuần trăng sau, vào dịp tết hoa nở ngày rằm tháng Hai, bỗng có người khiếng đến đặt trước sân nhà ông một chiếc quả lớn đựng đầy trầu cau bánh trái thượng hạng. Hỏi ra là gia nhân trong phủ Diên Thành hầu theo lệnh công tử Lý Câu mang quà Tết đến. Vợ chồng Tôn Trinh chưa kịp nói câu nào, lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu đã lặng lẽ rút đòn khiêng, kéo nhau mất biến suo dậu tre ngà đầu ngõ. Thế là ván đã đóng thuyền, mặc dù Nhuệ Anh lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi trả trầu cau. Nhuệ Anh và cô hầu gái xoã tóc, mặt mày không điểm trang, cố tình ăn mặc rách rưới lê lết khiêng chiếc quả ra đến đầu ngõ toan mang đi trả. Đón nàng đầu ngõ là ngũ phẩm phu nhân tay cầm con dao cau sắc như nước:

– Nhuệ Anh! Cứ mang mâm trầu đi. Nhưng hày dùng dao này đâm cổ mẹ trước đã.

Nhuệ Anh dừng sững lại. Mẹ nàng vật mình khóc:

– Dù con có hứa hôn với công tử Từ Lộ nhưng bỗng dưng nhà có trọng tội với triều đình. Nhà cửa tan nát. Vị hôn phu của con thì biệt tăm tích không lời nhắn gửi, không biết sống chết ra sao. Nếu nó có lòng với con, ít ra cũng phải có lời từ biệt… Nay công tử Lý Câu cũng là người khôi ngô, con nhà danh giá. Con gái có thì… Chuyện ăn chơi đối với đám công tử con nhà quyền thế như vậy âu cũng là lẽ thường tình. Đàn bà là phận tôi mọi, nếu để bụng chuyện ấy thì không sống nổi đâu con ạ. Con không thấy đó sao, ở kinh thành này đã bao nhà tan nát vì trái ý Diên Thành hầu… Cha mẹ sinh con ra chưa mong con báo đáp điều gì… Nay chỉ xin con… đừng đang tâm hãm hại cha con vào vòng lao khổ…

Dứt lời, bà mẹ lùi mấy bước, quì thụp xuống, hai tay chắp lại vái sống về phía con gái.

Nhuệ Anh rụng rời. Chân nàng dính chặt xuống mặt đất. Rồi không nói một lời, Nhuệ Anh buông mâm lễ vật. Chiếc mâm đồng rơi xoảng và những tấm bánh, buồng cau lăn lóc tung toé trước ngõ. Nhuệ Anh cắn vào môi bật máu. Từng bước câm lặng, nàng giẫm lên la liệt trầu cau, bánh trái, rồi như một cái xác không hồn lặng lẽ trở vào buồng.

Nửa đêm hôm đó, Nhuệ Anh mặc áo cánh ngắn, tóc vận gọn cài trâm gỗ, bó rơm vào đế giày để chân đi không phát ra tiếng động. Nàng rón rén bước qua mình cô hầu thân tín đang ngủ mê kêu ú ớ, nhẹ bước như một con mèo lẹ làng ra khỏi nhà. Băng mình qua đêm tối, quên cả sợ hãi, Nhuệ Anh đi tìm Từ Lộ. Nhiều người đồn rằng Từ đã bị pháp sư ĐẠI ĐIÊN dùng bùa phép giết chết. Riêng Nhuệ Anh biết chỗ chàng ẩn náu. Cái am nhỏ thờ thần đất ấy nằm bên cạnh bờ sông gần cầu Quyết nhưng đã nhiều năm không hương khói mà thành hoang phế, chung quanh là cánh rừng rậm rịt những tầng mây gai tối sẫm, lại thêm tiếng kẽo kẹt ghê người phát ra từ những thân tre khô xác cọ vào nhau mỗi khi gió thổi khiến người bạo gan cũng sởn gai ốc. Chốn ấy hầu như không có ai đặt chân tới. Tiết Thanh minh năm ngoái, nàng và Từ trốn cha mẹ, lựa lúc cô hầu gái và lão bộc đang mải xem thiên hạ lễ bái tảo mộ, mới rủ nhau lẻn đi chơi. Hai người mải mê trò chuyện, không nhận ra mình đã lạc bước tới tận cầu Quyết, lạc tới cửa miếu hoang. Nhuệ Anh nhìn bụi cây dày đặc, thấy trời sắp tối, lại lo về muộn, cha quở mắng, oà lên khóc. Nàng càng khóc, Từ Lộ càng hoảng hốt, vừa dỗ dành vừa loanh quanh mãi không tìm thấy đường về. Mãi sau, lão bộc sốt ruột chạy bổ đi tìm, may mới đón được họ.

Tai hoạ xẩy ra, Từ mất tích. Bằng linh cảm, nàng luôn cảm thấy chàng đang sống, đang ở đâu đây, rất gần. Sau nhiều lần cho gia nhân lùng sục dò tìm, nàng bí mật ăn mặc như một người hái củi tha thẩn khắp nới. Tay vờ nhặt củi khô mà mắt thì sục sạo dõi tìm. Cuối cùng Nhuệ Anh tới ngôi miếu thổ thần hoang phế bên sông.

Trong miếu, giữa tấm thân rỗng của bức tượng thổ thần mà mối đã ăn mất một bên chân, Từ đang ẩn náu, tím ruột bầm gan tìm kế trả thù. Chàng đã thành một người khác. Không còn dấu vết gì của chàng trai hào hoa phong nhã nồng nàn. Gương mặt tuấn tủ yêu dấu ngày nào nay xanh tái. Đôi mắt dịu dàng tình tứ trước đây nay như bốc lửa dưới đôi mày rậm. Nhiều lúc đang nói chuyện cùng nàng mà cái nhìn của Từ như đặt vào khoảng không. Trong con ngươi của đôi mắt rừng rực ấy loé lên một ngọn lửa man dại.

Nhuệ Anh biết, trong lòng chàng giờ đây chỉ có hận thù. Chàng nghĩ đến cái chết oan khiên của song thân. Nỗi đau của Từ như một thứ phong thấp nhập tâm phế. Nó khiến chàng câm lặng, ngày đêm nung nấu trong trí não một điều gì ghê gớm. Cháy ruột vì thương xót, Nhuệ Anh vẫn không khỏi chạnh lòng khi hiểu rằng với Từ, nàng không phải là tất cả của chàng, ngự trị trọn vẹn trái tim chàng như trước đây nàng đã lầm tưởng. Bây giờ nàng mới hiểu rằng trong con người Từ có một mảng tối mà nàng không hiểu và không thể với tới. Vẻ lặng lẽ u uẩn của Từ như muốn xua đuổi Nhuệ Anh. Nước mắt ròng ròng, tim đau như xé, chiều đã muộn, Từ vẫn ngồi cắn môi bật máu, cố không nhìn nàng. Nàng đành nín lặng ra về. Ngắm những vệt gai cào trên má in rõ mồn một trong tấm gương đồng treo đầu giường, Nhuệ Anh đổ vật xuống giường, ôm mặt khóc nức nở. Khi chiếc gối ướt đẫm nước mắt phả vào mặt nàng một mùi mặn lành lạnh, nàng như người sực tỉnh, đứng vụt dậy, giật đứt tấm lụa màu thiên thanh đang dệt dở trên khung cửi trùm kín chiếc gương đồng. Những vuông lụa dệt dở rủ xuống xơ xác như khăn tang,

Đêm rằm tháng Hai, Nhuệ Anh lần đến được ngôi miếu thì trống trên chòi điểm canh ba. Bụi cây đen ngòm quanh miếu khiến nàng chợn rợn như có bóng người rình rập. Trong bụi tre gai kẽo kẹt tiếng quỷ đưa võng. Giữa trời le lói vài ngôi sao nhợt nhạt. Tiếng chim lợn bay ngang qua đầu kêu “éc..éc..!” như đánh rơi những điềm gở. Vầng ngực của Nhuệ Anh thốt đau nhói vì sợ hãi. Nàng quay ngoắt ra phía sau. Không có gì đáng nghi ngại. Nhuệ Anhn vững dạ hơn chút ít. Nàng thận trọng gõ lên cánh cửa ọp ẹp của ngôi miếu ba tiếng khoan ba tiếng nhặt. Đó là ám hiệu mà nàng đã dặn Từ Lộ. Bên trong vẫn im ắng. Nhuệ Anh lặp lại ám hiệu thêm hai lần nữa, trong lòng rối bời. Chàng ốm… Chàng đã dại dột làm điều gì đó để bị bắt. Chân tay nàng bủn rủn.

Cố định thần nhìn kỹ cánh cửa, thấy hơi hé mở. Dường như có một làn hơi ấm mong manh phả ra Từ bên trong, lẫn giữa mùi lá mục và oai oai rêu phong. Làn hơi ấm đó chính là Từ. Cái mùi quen thuộc ấy không thể lẫn vào đâu được. Nàng dấn bước. Bóng tối trong căn miếu lập tức bưng chặt lấy mắt. Ánh đèn đom đóm soi rõ pho tượng thổ thần đắp bằng đất sét giờ đã bị mủn mất nửa đầu. Con mắt còn lại đang lừ lừ nhìn nàng Từ trên cao. Nhuệ Anh chột dạ cố trấn tĩnh để khỏi sợ hãi. “Lạy thổ thần phù hộ. Con đến đây không phải vì tà tâm…!”. Nàng nín thở, cố nhướn mắt trông cho rõ người con trai đã khiến trái tim nàng ngày đêm bị bóp nghẹt.

– Nhuệ Anh. Xin nàng đừng tìm ta nữa.

Tiếng nói vang lên Từ phía sau khiến Nhuệ Anh giật bắn người.

Tựa lưng vào bức tượng, Từ Lộ ngồi xếp bằng trước một trang giấy đang viết dở. Những dòng chữ sẫm tối dường như hắt lên ánh đỏ. Nhuệ Anh nhìn kỹ. Trong cái bát sành trước mặt Từ không phải là thứ mực Tàu thông thường. Đây là một thứ nước sền sệt phả lên mùi mặn. Nàng nhìn đầu ngón tay trỏ của Từ Lộ. Đầu ngón tay đã bị cắn nát dù được dịt lại bằng mạng nhện nhưng vẫn đang rỉ máu. Nhuệ Anh hiểu rằng những dòng chữ đó được viết bằng máu của chàng.

– … Ta chỉ sống nốt kiếp này để báo thù!…

Nhuệ Anh lao tới ôm lấy bàn tay Từ Lộ, ấp lên ngực. Nàng khóc tức tưởi. Nước mắt của nàng làm ướt tay chàng. Hơi ấm của dòng nước mắt phút chốc làm tan băng giá giá trong lòng Từ Lộ. Từ khi song thân mất, Từ chỉ còn là một con thú bị săn đuổi. Ở đâu chàng cũng cảm thấy có hình bóng của bè lũ Diên Thành hầu và pháp sư Đại Điên truy tìm lùng sục. “Nhỏ cỏ phải nhổ cả rễ…”. Chàng đã nghe người ta nói lại những lời đắc ý của Đại Điên khi hắn giết được cha chàng và thây cha chàng đứng sững trước cửa nhà Diên Thành hầu. Chàng đã chọn ngôi miếu hoang này làm nơi ẩn náu để tránh mọi điều bất trắc, nuôi chí, đợi cơ hội trả thù. Nhưng đêm nay dưới ánh mắt nồng nàn của người yêu, lòng Từ dịu lại, mềm ra thoáng chốc. Chàng đăm đắm ngắm gương mặt Nhuệ Anh. Chiếc cằm thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyến rũ. Từ Lộ xót xa bội phần ngắm vị hôn thê. Nếu cha chàng không chết vì tay Đại Điên và Diên Thành hầu thì gương mặt đẹp não lòng và thân hình trời cho này sẽ mãi mãi kề cận bên chàng, mãi mãi là của chàng. Đó là điều mà nhiều vương tôn công tử ở đất kinh thành này đều mơ ước. Nhưng giờ đây, mọi cánh cửa đều sập lại trước mặt chàng. Thù nhà khiến chàng không nghĩ được đến bất cứ một điều gì khác ngoài tiếng gọi báo oán. Trái tim Từ rắn trở lại. Tay chàng nắm chặt. Một dòng máu tươi rỉ xuống Từ đầu ngón tay trỏ mà chàng đã cắn nát để viết bức huyết thư trước mặt.

Nhuệ Anh rùng mình khi cảm thấy hơi lạnh Từ trong tim Từ chuyền qua những đầu ngón tay của bàn tay mà nàng đang ôm trước ngực. Bất giác Nhuệ Anh buông tay nhích về phía sau. Nhưng không thể kìm nén được, nàng lại nhòai thân đổ gục hai vai vào lòng Từ Lộ:

– Chàng ơi… Nguy rồi!… Sáng nay, Tết hoa nở, gia nhân của Lý Câu lại đội lễ vật tới…!

Vừa nghe thấy mấy tiếng “Lý Câu…” khắp người Từ Lộ rúng động. Chàng nắm hai vai Nhuệ Anh, đẩy nàng ra. Mấy ngón tay Từ bóp chặt đôi vai mảnh dẻ của Nhuệ Anh. Đôi mắt Từ như lồi ra, trừng trừng nhìn vào mắt nàng. Ánh mắt đó khiến đầu lưỡi Nhuệ Anh líu lại:

– …Từ Lộ! Hãy đưa em đi…! Hãy đưa em đi bất kỳ nơi nào. Đôi ta như cây liền cành…

Đôi mắt Từ vẫn mở trừng trừng trong bóng tối miếu hoang. Tưởng như chàng không còn nhìn thấy vị hôn thê phủ phục trước mặt, không nghe giọng nói van nài khẩn thiết của nàng. Một làn gió từ bên ngoài lọt vào cửa miếu, đốm đèn đom đóm trên bệ thờ thần vụt tắt. Im lặng. Mãi sau trong bóng tối âm u, tiếng của Từ mới lại vang lên rành rõ, ớn lạnh, vô cảm vô hồn:

– Nhuệ Anh… Xin nàng hãy quên ta đi. Xin nàng hãy coi như ta không còn trên cõi đời… Đời ta, dẫu sau này có thác xuống làm ma nơi âm phủ hay đầu thai vào kiếp khác… Ta vẫn vĩnh viễn mang ơn nàng…!

Nhuệ Anh còn chưa hết bàng hoàng vì những lời của Từ thì nàng đã thấy đôi bờ vai của mình trùng xuống chạm nền gạch lạnh toát của miếu hoang. Từ đã xoay người. Giờ đây chàng quay lưng lại phía nàng, úp mặt về phía tường rêu, hai con mắt vẫn mở trừng trừng lạnh lẽo…

Khi Nhuệ Anh tức tưởi chạy đến cổng nhà thì đã quá canh ba. Đôi bàn chân trần bé nhỏ tướp máu. Nỗi uất ức tuyệt vọng bóp nghẹt tim nàng. Nhuệ Anh lặng lẽ đẩy cánh cửa để vào nhà mà không nhận ra cha nàng đã bí mật theo sau nàng, đau đớn ngắm nhìn nỗi tuyệt vọng của con. Ông đã về trước, rút sẵn chốt cửa chờ con. Trong lòng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh vừa đau xót lại vừa gần như nhẹ nhõm. Ông nghĩ, vậy là việc nhân duyên của con gái mình với Lý Câu đã là số mệnh, hoạ phúc thiên định. Cha con ông không phải là kẻ thất phu sai lời hẹn năm xưa với Tăng đô án Từ Vinh. Ông lại tự hứa với mình, dẫu buông xuôi cho con gái lấy Lý Câu nhưng ông sẽ ngầm lo liệu giúp Từ Lộ khi có dịp. Âu cũng là trả cái nghĩa với người bạn đồng liêu năm xưa.

… Xe vàng chuyển

Cờ nghê bóng quyện

Tiêu xa luyến…

Tiếng đàn sáo đã vang lừng trước cổng kéo Tôn Trinh trở lại thực tại. Tôn Trinh tái người khi nhận ra đây là nhã nhạc chỉ dành cho bệ rồng. Công tử Lý Câu lại ngông cuồng đến mức này ư? Ông nheo mắt che tay nhìn kỹ, cố tìm trong đám người theo sau ông mai mối xem có thấy gương mặt song thân chú rể. Theo phong tục cha ông để lại Từ bao đời nay, Đại đăng khoa bao giờ cũng là lễ trọng nhất và không thế vắng mặt song thân chú rể. Nhà Diên Thành hầu đã ngạo nghễ bỏ qua lễ vấn danh, lễ sơ vấn mà vào ngay lễ Đại đăng khoa này. Một sự ngạo ngược đã đành. Vậy mà nay trong dòng người đã đến trước cổng nhà ông kia vẫn không thấy mặt vợ chồng Diên Thành hầu. Họ cậy thế coi rẻ người quá lắm. Trong lòng Tôn Trinh trào lên niềm uất tủi. Nhưng nhìn lại, ông thấy bà vợ mình đã loe xoe xiêm áo bên cạnh… Không thể dừng lại được nữa rồi. Quan Ngũ phẩm đành sửa mũ xốc áo quát lũ gia nhân ra mở rộng hai cánh cổng.

Cổng vừa mở, Lý Câu đã hấp tấp gạt đám tiểu đồng vây quanh, vượt lên chen qua ông mai bà mối để vào sân trước. Trong thâm tâm, vị công tử ăn chơi này cũng ngạc nhiên vì những hành xử khác thường của chính mình. Từ lúc còn là một đứa trẻ mười ba tuổi, Lý Câu vỗ ngực không biết bao nhiêu gái đẹp đã qua tay mình. Từ các tố nữ yểu điệu trông chốn phòng khuê cho tới những bông tầm xuân hé nụ nơi thôn dã. Từ bọn ca kỹ nhẵn mặt khách làng chơi đến các tiểu thư con quan nhất nhị phẩm, mỗi khi Lý Câu muốn thì lập tức trong phủ đệ của hắn lại phấp phới những bóng hồng. Lý Câu như con ong hoang cả thèm chóng chán, không đậu cánh hoa nào được vài tuần trăng. Điều này không phải không gây cho Lý Câu và vợ chồng Diên Thành hầu nhiều tai tiếng phiền nhiễu. Nhưng công tử là con một. Theo phép vua ban, Lý Câu sắp đến tuổi tập ấm tước cha. Diên Thành hầu phu nhân đã có ý chấm nhiều đám môn đăng hộ đối. Nhưng cậu con trai ngỗ ngược không nghe.

Lý Câu nhìn thấy tiểu thư Nhuệ Anh trong lễ Vu Lan ở chùa Diên Khánh năm ngoái. Vẻ đẹp khác lạ của người con gái đứng mơ màng bên bụi hoa ngâu trước sân chùa khiến công tử họ Lý ngẩn người. Đến lúc người con gái quay mình toan dời bước vào lễ Phật thì công tử Câu vội len theo. Trên tay công tử là chùm hoa ngâu vừa hái mong tặng cho người đẹp. Nhưng cô tiểu thư dửng dưng. Nàng cúi chào sư trụ trì rồi cùng mấy cô bạn ríu rít soạn lễ. Công tử Câu vỗ tay gọi kẻ hầu. Nhưng vẻ xăng xái, nể trọng của mấy tăng ni nhận lễ và dáng vẻ đoan trang lạ thường của người con gái khiến công tử phải chùn tay. Lập tức cho người dò hỏi, biết nàng là tiểu thư con quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, thì trong dạ mừng thầm, tưởng chừng như vưu vật đã nằm gọn trong tay rồi.

Nào ngờ Nhuệ Anh đã hứa hôn với Từ Lộ, con quan Tăng đô án Từ Vinh. Hoa đã có chủ. Nhưng với Lý Câu thì điều đó chẳng hề gì. Những cản ngại đối với gã bao giờ cũng làm tăng thêm sự hấp dẫn. Mỗi lần gặp, nhan sắc khác thường của Nhuệ Anh lại thêm một lần nữa làm Lý Câu bồn chồn nghiêng ngả.

Những đêm dài sau cuộc truy hoan, lần đầu tiên công tử Lý Câu thấy trong lòng trống trải. Và bóng dáng Nhuệ Anh với nét mày đa đoan nằm ngang trên đôi mắt long lanh, mới nhìn như vui, ngắm kỹ như u uẩn sầu đong đã ngày đêm ám ảnh. Lý Câu thấy mình đang nằm úp trên gương mặt quyến rũ kỳ lạ ấy, hai khuỷu tay ngập trong mớ tóc mây xoã tung của nàng và cuộc mây mưa đạt đến khoái lạc khôn tả trong tiếng gào thét của Nhuệ Anh. Tỉnh dậy, vạt đệm da cáo trắng ướt đầm dưới chỗ gã nằm.

Từ đó, những cuộc ân ái với mọi giai nhân khác đều trở nên nhạt như nước ốc. Cơn thèm khát càng dâng cao tột độ. Lý Câu hiểu rằng, hắn sẽ héo mòn tâm can nếu không độc chiếm vợ chưa cưới của Từ Lộ về làm của riêng. Nhưng dù đã hãm hại được gia đình Tăng đô án Từ Vinh, nhưng trong mắt Nhuệ Anh vẫn chỉ có hình bóng Từ Lộ độc chiếm. Nhuệ Anh càng xua đuổi, càng cao ngạo, ngọn lửa dàm mê càng rừng rực thiêu đốt Lý Câu.

Một buổi tối, khi song thân của Lý Câu vừa thưởng thức món hùng chưởng hầm sâm, đang ngồi xỉa răng bằng tăm ngà, thì giật nẩy mình khi cậu quý tử chạy vụt tới. Đồng thời, từ tay cậu, một lưỡi đao sáng loáng cắm phập xuống chiếc sàn gỗ lim, rung lên bần bật. Phu nhân lẩy bẩy. Diên Thành hầu vốn biết tính nết cậu quý tử, đứng vụt dậy nhìn con trừng trừng. Cậu quý tử một mực đòi cha mẹ phải đến hỏi Nhuệ Anh về làm vợ. Nếu cứ ngăn cản, cậu sẽ dùng lưỡi đao này đâm chết cha mẹ rồi tự đâm vào cổ mình. Việc Lý Câu bỗng dưng gắn bó với một người con gái, mà đó lại là vị hôn thê của con trai Tăng đô án Từ Vinh, khiến cả vợ chồng Diên Thành hầu vừa ngạc nhiên, vừa phẫn uất…

*

**

Ông bà mai mối nhả miếng trầu đang nhai dở, hai tay nâng cái dải lụa hồng, còn đang định lựa lời mở miệng thì Lý Câu phất tay sải ba bước tới mặt vợ chồng Tôn Trinh đang đứng trên thềm nhà. Cúi mặt vái hai vái mà mắt vẫn ngước lên dáo dác tìm kiếm:

– Hôm nay, nhân ngày lành tháng tốt, song thân tôi cho mang lễ vật tới làm lễ Đại đăng khoa. Hẹn sau mười ngày nữa, lễ Tiểu đăng khoa cử hành, đón Nhuệ Anh tiểu thư về cùng tôi gá nghĩa trăm năm.

Nghe câu nói sỗ sàng thất lễ, ông mai bà mối đưa mắt nhìn toan lên tiếng đỡ lời. Nhưng Lý Câu dã quay lại. Mười hai thanh nữ nhất loạt tiến lên, đồng loạt nhún chân hạ dẫy qủa sơn son. Các tiểu đồng răm rắp thành hàng ngang, lẹ tay mở những chiếc quả đựng lễ vật. Sáng loà giữa đám lễ vật là một buồng cau lớn, những quả cau bằng bạc khối mà chỉ khẽ đụng vào thì tiếng bạc cũng ngân rung. Một trăm cặp bánh phu thê làm bởi những tay thợ khéo nhất kinh thành được gói bằng lá dong xanh mướt cột lạt nhuộm đỏ tươi rói. Hai mâm xôi gấc hạt mọng thẫm, hai mâm xôi trắng ngật ngưỡng, trên đỉnh mỗi mâm là một thủ lợn kếch sù có gài bông hoa đỏ chói bằng lụa nơi mõm. Khi nhìn đến chiếc quả sơn son cuối cùng, mọi người đều ồ lên một tiếng kinh ngạc trước bộ nữ trang quý giá mà Diên Thành hầu tặng con dâu. Một đôi hoa tai xoè sáu cánh vàng uốn cong, nhuỵ hoa là một viên ngọc ánh hồng như hút lấy ánh sáng toả ra từ ngọn nến mà lũ tiểu đồng nhà Lý Câu vừa thắp lên. Trong chiếc hộp ngà trạm trổ tinh xảo là hai con rồng vàng chầu mặt nguyệt uốn cong thành một chiếc kiềng đỡ hai chữ “Phúc Lộc”. Nằm sum vầy giữa hộp là đôi vòng cũng bằng một thứ ngọc nổi vân đen trên nền xanh biếc. Mộ chiếc trâm bằng đồi mồi có sáu dây tua mà lủng lẳng mỗi đầu dây là một viên trân châu.

Lý Câu nhìn khắp mọi người, vẻ tự mãn làm tròn đầy, nở nang khuôn mặt. Công tử quay sang nhìn vào mặt Tôn Trinh hỏi:

– Thưa nhạc phụ… sao không để Nhuệ Anh tiểu thư ra nghênh tiếp? Tôi muốn nhìn thấy bà mối đeo kiềng vàng cho tiểu thư!

Tôn Trinh nghiêm sắc mặt:

– Nhà công tử nhiều châu báu lắm, chúng tôi biết. Nhưng con gái nhà chúng tôi có đi lấy chồng đi chăng nữa cũng không phải vì chuộng kiềng vàng đâu. Song thân nhà công tử đâu, sao không diện kiến. Xưa nay con nhà nề nếp chưa từng có ai tự đi hỏi vợ bao giờ. Vả lại, công tử còn không biết phép nước, dám dùng nhã nhạc của cung đình đem rong ruổi trên đường như một bầy hát rong. Phiền công tử hãy mang lễ vật trở về nhà.

Đứng cạnh chồng, Tôn Trinh phu nhân nghe những lời của chồng thì rụng rời chân tay. Bà vội vàng đỡ lời, nói như người hụt hơi:

– Kìa phu quân, sao hôm nay ông quá lời làm vậy? Gia đình hoàng thân là chốn cao sang thì có bao giờ lại không biết phép tắc? Chẳng qua… có lẽ hôm nay ngài bận vào triều luận bàn quốc sự…

Tôn Trinh quắc mắt nhìn vợ:

– Bà chớ nguỵ ngôn với ta để bênh vực cho những điều trái nề nếp gia phong…

Thấy tình thế nguy ngập, bà mối vội bước lên, uốn lưỡi dẻo quẹo:

– Thôi mà. Trăm sự xin ông bà lượng thứ. Công tử chúng tôi tuy còn trẻ người non dạ nhưng một lòng yêu thương Nhuệ Anh tiểu thư. Ông bà ta xưa đã dạy: “Thật thà bằng ba khôn khéo”. Sinh ra làm phận gái ai cũng phải lấy chồng. Nay ông bà được kết thân với nhà Hoàng thân quyền thế lệch thiên hạ, còn hưởng nhiều phúc lộc về sau. Tiểu thư được sánh đôi với Lý công tử, mỗi bước chân đi ngập trong châu báu, gấm vóc. Cái vinh hạnh chất ngất ấy thử hỏi trên đời ai là người không mơ ước? Xin nghĩ đến tương lai của tiểu thư mà cẩn trọng. Đừng làm cho Hoàng thân bất ý một lần nữa.

Tôn Trinh không nói thêm được lời nào. Ý muốn của công tử Lý Câu cứ như một dòng thác lũ bất cần lẽ phải. Đám lễ vật sáng loá trước mắt cũng xoa dịu sự bực bội của ông đôi phần. Ông tự an ủi rằng dẫu thế nào đi nữa, ái nữ của ông cũng được một chỗ ấm thân. Dẫu Lý Câu vốn là một kẻ ngông cuồng càn rỡ nhưng con gái ông vốn bướng bỉnh, biết đâu với sắc đẹp và tài trí của nó, nó sẽ thuần phục được con ngựa hoang toàng kia… Nghĩ đến đây, tâm trạng căng thẳng đối phó của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh chùng xuống.

Ông sai gia nhân:

– Vào mời tiểu thư ra đây.

Chưa dứt lời đã thấy tiếng Nhuệ Anh vang lên ngay sau lưng ông:

– Thưa cha mẹ, xin cha mẹ thứ có con tội thất lễ. Con xin có mấy lời với công tử.

Tôn Trinh giật mình quay lại. Con gái ông xoã tung tóc, mắt ráo hoảnh, mặt không son phấn. Nàng nhợt nhạt nói với Lý Câu đang ngẩn người:

– Nhuệ Anh tôi xin cảm ơn sự chiếu cố của công tử. Tôi xét mình phận mỏng, kém quyền thế, không xứng kết đôi cùng công tử, công tử mang lễ vật về ngay cho.

Nói xong nang phăm phăm chạy đến bên mâm cau bạc, nhặt lấy chiếc hộp trang sức đang hắt ánh sáng chói lọi rồi đặt vào tay Lý Câu. Lý Câu đang ngơ ngác chưa kịp hiểu ra chuyện gì, bất giác hai tay đỡ lấy mâm đứng như trời trồng giữa sân. Cả đám đông lặng im, há miệng nhìn.

Tôn Trinh phu nhân tái mặt, lật đật chạy ra quát:

– Hỗn nào! Nhuệ Anh! Phận gái cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Phải biết giữ bổn phận.

Nhuệ Anh nhìn mẹ:

– Thưa mẹ, mẹ có chóng quên quá không? Cha mẹ đã sắp đặt cho con một lần và con đã nghe theo. Con quyết không lấy ai ngoài Từ công tử. Xin cha mẹ đừng ép duyên con.

Lý Câu cười nhạt:

– Từ công tử?… Lẽ nào nàng chẳng biết cái thằng dở điên dở khùng ấy đã mắc vào tội vu oán giá hoạ cho người khác, may nhờ hồng ân của cha ta nên mới khỏi bị xử trảm. Mà có khi hắn đã chết rũ xương nơi nào rồi…

Không biết được sự tình nỗi oan trái của Từ Lộ là do cha con Diên Thành hầu gây nên, nhưng Nhuệ Anh cảm thấy rất rõ giọng nói của gã công tử đang đứng trước mặt nàng một vẻ khoái trá dã thú khiến nàng ghê sợ. Nhuệ Anh khinh miệt nhìn gã, ngắt lời:

– Công tử chớ quá lời. Chớ khoái trá khi nói về nỗi bất hạnh của kẻ khác. Trời có mắt. Ta không bao giờ tin người trung nghĩa như cha con Từ công tử lại có thể làm điều gì không xứng đáng. Trong lòng ta chỉ có Từ Lộ mà thôi. Ta tin sẽ có ngày chàng giải được nỗi oan khuất này.

Lý Câu vằn mắt:

– Nàng chớ hão huyền. Muốn gì thì mươi ngày nữa nàng cũng đã nằm trên giường cưới của ta. Ta đã hẹn với nàng trên cầu, vào đêm Nguyên tiêu. Cho đến nay, lẽ nào nàng chưa hiểu tính ta. Ta đã nói, đã muốn cái gì thì dẫu sét đánh ngang tai cũng mặc. Hôm nay, vì sắc đẹp của nàng, ta bỏ qua cho nàng tội bất kính. Lúc này ta chỉ muốn chạy nhanh tới đêm tân hôn. Và hãy nhớ, cái gì công tử Lý Câu này đã muốn ắt phải được.

Rồi đĩnh đạc, khoan thai, Lý Câu mở một nụ cười với vợ chồng Tôn Trinh:

– Bây giờ ta phải về, Cha ta đang mở tiệc khoản đại bạn bè khách khứa. Chắc ông bà tuổi cao, từng trải cũng biết rõ lẽ thiệt hơn mà làm cho tiểu thơ bớt bướng bỉnh.

Gã quay sang cười với Nhuệ Anh đang đỏ bừng mặt vì tức giận:

– Khi tiểu thư tức giận trông càng bội phần xinh đẹp. Ta thích ngay cả sự bướng bỉnh của tiểu thư. Mười ngày nữa, nàng sẽ còn dịp mà phô vẻ tức giận trước mặt ta.

Giáo phường lại nổi nhạc. Mười hai cô gái đội lên đầu những chiếc quả rỗng không, cùng ông mối bà mai và lũ tiểu đồng nhún nhẩy trở về. Lý Câu đi sau cùng. Xe ngựa ghé sát thềm. Trước khi bước lên xe, còn quay lại ghé vào tai vợ chồng quan Ngũ phẩm Tôn Trinh:

– Ông bà hãy cấm cung tiểu thư Nhuệ Anh ngay từ bây giờ. Đừng để tai vạ đến cả dòng họ. Xin hãy bảo trọng.

VTH

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder