Giàn thiêu – truyện ngắn Võ Thị Hảo

Đinh mùi (1). Tháng chạp. Ngày Ât Dậu. Giờ dần.

Thần Tông (2) hoàng đế gà gật trên kiệu vàng. Đôi chân ngắn cũn ủ trong cặp hài mũi cong như mũi thuyền rồng, hai bên lườn hài gắn những hạt minh châu ánh biếc. Tua vàng buông rủ đung đưa theo nhịp rập rình của những bờ vai lực lưỡng mười sáu phu kiệu…

 

(PHẦN 1&2)

An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha……!

Đinh mùi (1). Tháng chạp. Ngày Ât Dậu. Giờ dần.
Thần Tông (2) hoàng đế gà gật trên kiệu vàng. Đôi chân ngắn cũn ủ trong cặp hài mũi cong như mũi thuyền rồng, hai bên lườn hài gắn những hạt minh châu ánh biếc. Tua vàng buông rủ đung đưa theo nhịp rập rình của những bờ vai lực lưỡng mười sáu phu kiệu.

Hoàng đế ngái ngủ. Mười hai tuổi, đang là Thái tử Dương Hoán, tiên đế Nhân Tông băng hà, ngài được lập lên ngôi giữa lập loè đèn nến trước linh cữu. Dù đã được đem vào cung nuôi dạy từ lúc còn là một đứa bé lên hai, nhưng Dương Hoán còn bỡ ngỡ với hết thảy các phép tắc của một vị hoàng đế, lại càng chưa quen với những chuyến đi xa phải dậy sớm với những nghi thức nặng nề thế này. Ngài uể oải ngáp.

Âm ì như sóng biển bao phủ quanh thân mình ngài ngự, trong tấm chăn hồng nhạt phớt vàng của vầng dương đang bắt đầu ló rạng, tiếng tụng kinh gõ mõ của năm mươi sáu nhà sư đi thành hàng đôi quanh kiệu vàng càng như ru vị hoàng đế nhỏ vào giấc ngủ êm đềm.

Giai điệu âm u mịt mùng của lời kinh cầu hồn vẫn đều đều quyện lấy kiệu vàng và đoàn tuỳ tùng dài như vô tận. Kính cẩn nâng quyển kinh bằng lá bối, vị thượng toạ áo vàng mình gầy guộc tiên phong đạo cốt dẫn đầu đoàn. Tiếp gót , bốn đại sư phơ phất phướn trên tay. Các tăng quan và một chuỗi nhà sư khác theo sau. Tay không ngơi lần tràng hạt, miệng họ ê a cất lên những câu kinh như gió thoảng không bao giờ dứt.

…An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha… (3)

Sương sớm tan. Con đường nhuộm màu áo vàng cong lên lượn xuống uốn theo những sườn đồi, dần dà hiện rõ mồn một. Dân chúng trong vùng nô nức đổ ra xem, bất giác đồng thanh ” Mô Phật ! “, lòng dậy lên niềm sùng kính với đức từ bi.

Tại các cổng chùa ven đường cái quan, sư trụ trì hối hả giục chú tiểu mang hương án phẩm vật ra dâng đấng tân vương và các thượng tọa đạo cao đức trọng. Chốc chốc, đoàn xa giá khựng lại vì có sư trụ trì một chùa nào đó ra dâng vật phẩm. Nhân Tông hoàng đế lúc sinh thời thường ban thưởng hậu cho những kẻ đem dâng những phẩm vật lạ báo điềm lành của đất nước. Thiên hạ biết vậy, nên sinh thói đua tranh tìm kiếm vật hiếm quí để ra mắt tân vương.

Dương Hoán Thần Tông hoàng đế tỉnh ngủ hẳn, mắt sáng rỡ khi thấy sư trụ trì chùa Phụng Từ quì trước kiệu vàng, cúi đầu hai tay nâng mâm son dâng lên một con rùa nhỏ màu hoàng yến, có đôi mắt to màu vàng sậm, trên ức rùa vân sừng nổi lên hình hai chữ ” Thiện đế ” rõ như tay người viết bằng mực nho đen nhánh.

Dương Hoán ngước nhìn Trung thừa Mâu Du Đô đang đứng chầu hầu liền bên, dò hỏi . Mâu Du Đô nhìn rõ dấu tay người viết rất khéo trên mai con rùa nhưng lặng im giây lát, chỉ nói : ” Muôn tâu ! Thiện đế nghĩa là một bậc đế vương nhân hậu khoan dung ! “. Nhà sư đảo nhanh mắt, nhìn quan Trung thừa vẻ hàm ơn rồi khúm núm : ” Muôn tâu hoàng đế, trong mỗi mắt của con rùa quý này có tới sáu con ngươi. Đó là điềm triệu cực lành, báo trước sự thịnh vượng của đại triều dưới sự chăn dân đức tân hoàng đế…” .

Thần Tông chưa hiểu hết những lời của sư chùa Phụng Từ, nhưng lòng mừng khôn xiết, ghé sát vào mắt chú rùa, cố tìm cho ra sáu con ngươi nhưng nhìn mãi cũng chỉ thấy có hai con, trong khi các cận thần đều bảo là trông thấy quả thực có sáu con ngươi, liền bảo thị vệ đặt rùa vào hộp vàng, trọng thưởng cho nhà sư. Đoàn xa giá lại tiếp tục nhuộm sặc sỡ con đường lên Na Ngạn (4).

Trên cao, những vì sao cuối cùng tắt hẳn. Tiếng chuông chùa Phổ Thiên đổ dài từng hồi, lanh lảnh ngân nga, đệm nền cho giọng kinh cầu hồn. Aỏ não những cánh quạ bay là là trên mấy đụn rơm nhả khói bếp nhà nông phu. Thoảng mùi cháy khét pha vị ngọt sắt của khoai vùi quá lửa trong tro nóng.

x x x

…. Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau lên thuyền Bát nhã

Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm vượt qua bể khổ

Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn

Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau đến nhà vô vi…

Những câu kinh ” Đại bi sám pháp ” da diết phả vào tiếng chuông. Buổi sáng không sương mù. Những vì sao vừa tắt thì muôn tia nắng vàng ngọt sắt như lưỡi đòng thép xuyên xuống dòng người lầm bụi.

Đằng sau chuỗi người được che phủ trong cờ xí quạt tàn võng lọng rực vàng đường lên Na Ngạn là mười hai cộ gỗ. Mười hai thớt trâu đực sừng dài cong như nửa vành trăng, lớp lông dọc sống lưng dựng cao và cứng xoắn như đám rễ tre gộc qua lửa ì ạch kéo dẫy cộ ngật ngưỡng những phiến gỗ thông lớn phả mùi thơm ngát. Ngất ngưởng trước đống gỗ thông trên chiếc cộ dẫn đầu được kéo bởi cặp trâu trắng bốn chân lừng lững như chân voi là một vị quan trong bộ trang phục áo tơi nón lá mục đồng tay cầm roi bằng nhánh hoa lau có tết tua ngũ sắc luôn tay quật vun vút lên lưng trâu. Dãi trâu rỏ thành dòng ướt mặt đường đồi đất đỏ. Những vệt cỏ chó đẻ hai bên đường bết bụi cong rũ.

Để có được mười hai cộ gỗ thông này, quan Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đã đích thân giao cho tri phủ Lạng Giang sai hai trăm tiều phu cơm đùm cơm nắm lên núi kén chọn từng gốc thông gìa ngoài trăm tuổi. Những gốc thông mà lưỡi rựa thép chém vào ứa ra dòng nhựa vàng quánh trong như hổ phách. Khi mang được gỗ về thì những phiến gỗ thông đã nhuộm máu của ba mươi tư kẻ tiều phu xấu số. Để ngăn cản oan hồn của những người tiều phu oán hận về đòi mạng, gây bất an cho bản triều, quan Thái bảo đã theo cung cách dân gian, buộc một dải khăn sô dài lê thê ngang sừng cặp trâu kéo chiếc cộ thứ ba.

Đám rước khổng lồ nặng nhọc chuyển đi. Khi tiếng chuông chùa vừa dứt, giàn nhạc cung đình réo rắt tấu khúc bi ai. Não nuột tiếng kèn, tiếng thanh la não bạt chen giọng thương khóc Đức Nhân Tông hoàng đế mới băng hà.

x x x

Dân chúng đổ ra hai bên đường ngóng xem đám rước mỗi lúc mỗi đông. Những người đàn ông gầy guộc đóng khố cởi trần tóc búi tay cầm roi tre đang cố sức giữ cho đám trẻ khỏi túa ra đường len lén hé mắt trộm ngắm mặt rồng dưới mu bàn tay cáu bẩn che mặt. Đám dân đen tội nghiệp chỉ kịp thấy trôi qua mắt họ một gương mặt trắng xanh nhỏ nhắn với đôi mắt xếch sáng rực, ngưỡng thiên và cặp chân đung đưa tung tẩy như chân trẻ con đang vầy nước. Chiếc mũ miện nặng nề nạm ngọc bích nổi bật trên những tua vàng tua bạc

buông rủ làm cặp lông mày trĩu xuống. Sức nặng của vương miện dường như quá sức chịu đựng của sợi cổ mảnh khảnh.

Đi sau kiệu rồng chừng nửa dặm, một chiếc xe khổng lồ sơn son thiếp vàng khảm những đoá mẫu đơn màu đen tang tóc. Chiếc xe chầm chậm như nhẹ trôi trong không trung, được kéo bởi những bước chân đều đặn của một trăm hai mươi nữ nô lệ người Chân Lạp . Hai bầu vú trần đen sạm trĩu nặng. Từ đầu vú run rẩy rỏ xuống những giọt mồ hôi đặc quánh dưới ánh mặt trời. Những nữ nô lệ này tuổi chỉ vừa đôi tám, tóc vấn cao hình tháp quấn những chuỗi hoa đại trắng, ngang lưng vấn xoắn váy màu vàng lơ lửng đến bụng chân. Cổ chân rám nắng quấn những chuỗi vòng vỏ ốc nhiều màu. Tiếng vỏ ốc va nhau lách cách như nhạc đệm theo mỗi bước đi. Mồ hôi loáng ướt lưng trần. Ngực tì ngực lên những chiếc ách bằng gỗ lim đen nhẫy. Giàn nữ nô lệ đi như một dẫy người câm không vui không buồn.

Trên xe, lồng lộng giữa trời là bốn mươi chín cô gái cài vàng dát ngọc áo tía xiêm hồng đầu chít khăn ngang. Những cung nữ của Hoàng đế Lý Nhân Tông vừa băng hà. Họ đang trên đường tới đảo Âm Hồn, lên giàn thiêu. Khi ngọn lửa giàn thiêu bốc lên, họ là những kẻ tôi đòi cưỡi khói để kíp kíp tới Niết bàn hầu hạ đức tiên đế. Những người kế nghiệp có dạ trung quân không thể để đức vua phải chịu cảnh phòng không gối chiếc quá lâu nơi Niết Bàn.

Thần Tông hoàng đế đã tỉnh ngủ hẳn. Ngài lệnh cho kiệu rồng dừng lại, đợi cho chiếc xe chở các cung nữ sắp bị thiêu diễu qua trước mặt. Vẻ đẹp rực rỡ của các nô lệ kéo xe cùng các cung nữ khiến Thần Tông ngẩn người. Đức vua sực tỉnh, khi nghe tiếng của Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác lệnh cho quan thủ lễ:

– Lũ đao phủ đã tề tựu đủ chưa?

Quan thủ lễ khúm núm:

– Dạ bẩm ! Đã đủ .

– Liệu đây có phải là một lũ thỏ đế tái mặt run tay khi thấy lũ cung nữ bước vào lửa giàn thiêu?

Quan thủ lễ khúm núm :

– Bẩm, không đời nào, thưa quan Thái bảo ! Bốn mươi chín tay đao thành thục nhất mỗi tay từng hành quyết không dưới năm mươi tử tù. Lại từng được đích mục sở thị giàn chôn sống thị nữ trong đám táng ỷ Lan Linh nhân Hoàng thái hậu.

– Cẩn thận. Có bề gì, hãy trông chừng cái đầu của ngươi đó!

Quan thủ lễ ngập ngừng, đưa mắt cầu cứu Thần Tông:

– Dạ! Kẻ bất tài này không dám sơ suất…Nhưng bẩm…còn có điều không thể không nói ra!

Thái bảo Lý Trác trừng mắt:

– Công việc đang cấp cấp. Giờ đưa các cung nữ dâng lên đức tiên hoàng đã điểm. Sao không đi ngay lo việc, còn đứng đó huyên thuyên lắm lời?

Mặt viên thủ lễ biến sắc, nhưng vẫn cố nán lại, quỳ rạp xuống:

– Muôn tâu bệ hạ ! Bẩm quan Thái bảo. Xin cho kẻ hèn này tâu xin một lời trước khi đi làm phận sự, không dám trễ nải!

Lý Trác lại trừng mắt. Nhưng Thần Tông đã dịu nét mặt:

– Quan Thái bảo! Đừng doạ nạt người ta quá. Nhà ngươi cứ nói!

Lý Trác hậm hực im lặng. Thủ lễ tâu:

– Muôn tâu! Từ Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu (5), noi theo các phép tắc đời Tần Thuỷ Hoàng phương bắc, mà trăng trối trước khi chết rằng, nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi theo hầu hạ Thái hậu. Vì thế, mùa thu tháng bẩy ngày hai mươi nhăm, Hội Tường Đại Khánh năm thứ tám (6), ba cung nữ đã bị chôn sống theo lễ hoả táng của Thái hậu trên đảo Âm Hồn này. Từ đó đến nay, ngày nào cũng vậy, vào chính ngọ, dân trong vùng cứ ngửi thấy mùi thịt người cháy và tiếng kêu khóc nghẹn ngào của đàn bà vọng lên từ dưới đất…

Thần Tông rùng mình so vai. Lý Trác mắt đã nảy lửa, chằm chằm nhìn vào cái cổ đang phập phồng lên xuống của quan thủ lễ.

Làm như không biết đến cử chỉ của quan Thái bảo, viên thủ lễ cố nói gấp gáp :

– Muôn tâu ! Vì thế, thiên hạ có lời đồn, vì có việc chôn sống ba cung nữ mà đức tiên hoàng cũng phần nào bị tổn thọ…

Lý Trác đập tay, thét:

– Loạn ngôn ! Đức Tiên đế ta thọ sáu mươi ba tuổi, ở ngôi năm mươi sáu năm. Xưa nay chưa từng có vị hoàng đế nào được phúc lộc thọ dồi dào như vậy!

– Dạ bẩm ! Quan Thái bảo dạy thế thật thông thái như thần. Nhưng năm Long Chương Thiên Tự thứ nhất (7), ngày hai mươi lăm tháng giêng, tiên hoàng hạ sinh, tuổi Ngọ, ngay ngày hôm sau đã được lập làm Hoàng thái tử. Lúc đó, Nguyên phi ỷ Lan đã cho vời quan chiêm tinh, thái bốc vào triều, lập lá số, gieo quẻ bói cỏ thi và mai rùa. Tất cả các quan chiêm tinh, thái bốc đều quì tâu lên rằng đức tiên hoàng thọ ít nhất là bảy mươi ba tuổi !

Thần Tông lại rùng mình lần nữa, càng chăm chăm nghe quan thủ lễ tâu bày.

Viên thủ lễ tiếp lời:

– Bởi thế, hạ thần này, dẫu ngu tối, nhưng cũng mạo muội xin được tâu với hoàng thượng và quan Thái bảo… Phải tính đến cái phúc cái hoạ sau này. Phải lấy thọ mệnh của đức quân vương làm điều trọng…..

Quan thủ lễ chưa dứt lời, Thần Tông giẫy nẩy như một đứa trẻ:

– Trẫm không muốn chết! Trẫm cũng không cho bất kỳ ai chết!

Thái bảo Lý Trác mím môi suy tính, rồi bất đắc dĩ cất giọng dỗ dành ngài ngự :

– Tâu bệ hạ! Bệ hạ nối nghiệp tiên vương, cai trị giang sơn xã tắc. Thiên hạ là trong tay bệ hạ. Đức quân vương có ân, có uy. Ân có thể khiếm khuyết, nhưng uy thì phải ngùn ngụt như hoả diệm sơn mới mong thiên hạ khiếp phục mà phải chầu hầu, đặng trấn áp giặc dữ can qua. Bẩm ! Việc thiêu cung nữ là theo lời trăng trối của đức tiên hoàng. Nếu ta không noi theo, thiên hạ chê trách. Tiên hoàng ở chốn Niết Bàn chăn đơn gối chiếc, lẽ nào bệ hạ đành lòng? Bệ hạ đừng nghe lời sàm tấu của kẻ vì hèn nhát mà sinh cuồng ngôn kia !

Thần Tông chưa kịp nói gì, Lý Trác đã xỉa tay trỏ thẳng mặt quan thủ lễ:

– Chỗ của nhà ngươi là ở giàn thiêu, không phải ở đây làm rối lòng hoàng thượng. Sơ suất, đầu nhà ngươi sẽ bêu mãi trên cọc ở đảo Âm Hồn.

Quan thủ lễ mặt xanh lét như tàu lá, bước giật lùi rồi vừa đi vừa chạy về phía đảo Âm hồn.

x

x x

… Nếu con đến núi dao

Núi dao liền sụp đổ

Nếu con đến nước, lửa,

Nước lửa liền khô tắt

Nếu con đến địa ngục

Địa ngục liền trống không…

Những lời kinh đã dồn dập chuyển sang giọng đưa linh. Những linh hồn dường như đã chơi vơi ra ngoài thân xác, nửa nổi nửa chìm trong ngoài địa ngục.

Trong nhịp khục khặc của bánh xe gỗ nghiến trên đường đất đỏ, vẻ đẹp u ám của những cung nữ và những khuôn mặt đợi giờ chết của họ rực lên trong tang tóc như những ngọn nến cháy lần cuối giữa buổi bình minh ma quái mà mặt trời vừa ló rạng với những tia nắng đầu tiên như phun máu.

Đường từ kinh đô lên Na Ngạn chưa đầy năm mươi dặm nhưng cũng quá xa với bước chân người và vành xe trâu. Dường như đã quá nhiều mồ hôi và nước mắt rỏ ướt con đường đến đảo Âm Hồn. Nhờ sự đôn đốc không mệt mỏi bằng roi và gậy của quan Thái bảo Lý Trác cùng chư vệ tướng quân, lúc gần trưa thì đám rước cũng đã tới.

Chờ sẵn đám rước và đoàn xa giá là rừng người và cờ xí quây quanh một chiếc nhà táng. Kiệu vàng vừa dừng lại, rừng người rền vang tiếng khóc. Tiếng khóc ruột rà của thân nhân chínmươi chín cung nữ. Họ được hưởng ân sủng của đức vua. Họ được phép tới tận đây, hưởng vinh hạnh thấy tận mắt con em của mình trong những giây phút cuối cùng trước khi bước lên giàn thiêu tới cõi cực lạc hầu hạ đức Tiên đế.

Thái bảo khu mật sứ Lý Trác hoảng hốt thét : “Hoàng đế giá lâm !…Phủ phục!”. Tiếng người khóc càng lớn. Như có một cơn bão sàn sạt đổ tới, những chiếc đầu rạp sát đất, giấu mặt giữa hai khuỷu tay. Thần Tông vướng víu ngượng nghịu trong bộ ngự bào quá nặng nề, không để cho các quan hộ giá dìu đỡ đã vén áo nhẩy tót từ trên kiệu xuống. Bàn chân nhỏ nhắn vướng vào vạt áo bào khiến ngài vấp ngã.

Chỉ kịp thấy ánh mắt Lý Trác quắc lên, ngự lâm quân đã lôi xềnh xệch một kẻ bạo gan vừa bưng mặt cười khúc khích. Nghe vọng lại trên đám người

một tiếng rú tắc nghẹn. Đầu kẻ khi quân lìa cổ. Và giây lát đã trừng trừng đôi mắt trắng dại trên đầu cọc cắm bên lối đi.

x

x x

Sau hiệu lệnh của quan Thái bảo, một chiếc kiệu đặt trên vai tám phu kiệu lực lưỡng lập tức hạ tới trước mặt vua. Các phu kiệu mặc áo đen nẹp xanh, đầu đội mũ mấn, ngang lưng thắt khăn sô rạp mình. Thần Tông được sáu cung nữ lưng mỏng như liễu má đỏ môi hồng xúm nhau dìu lên kiệu. Tám phu kiệu oằn mình đứng dậy dưới sức nặng nghiến vai của cỗ kiệu sơn son thiếp vàng theo nhịp hiệu tu và từ tay quan thủ lễ. Thanh la não bạt và chiêng trống dồn dập hoà theo. Cỗ kiệu nâng vua lên theo những bậc thang xoắn ốc xếp bằng đá trắng dẫn lên đài cao. Chót vót trên đỉnh đài là chiếc lọng vàng che nắng, riềm lụa phấp phới trong gió xuân. Vua ngồi xuống. Sáu cung nữ cùng đám lễ quan xúm xít hầu quanh.

Từ trên đài cao, Thần Tông đưa mắt. Dưới chân ngài ngoằn ngoèo cũng hình xoáy ốc, một con sạn đạo được kết bằng những khúc gỗ tươi quết trầu đỏ như máu. Sạn đạo vắt qua mặt hồ rộng tới một đảo nhỏ như hình mu rùa nổi lên giữa hồ.

Đảo Âm Hồn.

Màu đỏ chết chóc của sạn đạo đâm thẳng vào ngôi lầu tám mái trắng mái lợp bằng chín tầng vải sô, trang điểm bằng những búi xơ tre nhuộm đen mang hình âm dương nửa đen nửa trắng. Những cặp công, trĩ, cùng những cặp uyên ương bị buộc chân vào nhau đang cất tiếng kêu thảm thiết vang vọng mấy tầng lầu. Chóp lầu là một khúc gỗ gạo tạc đơn sơ hình một nữ nhân tóc xoã rướn người với tay lên trời cao.

Nhà vua nhíu mày. Dưới chân ngài, một trăm cung nữ gần như được xốc dậy từng người một, nhấc ra khỏi cỗ xe mẫu đơn đen. Những thân hình đào liễu lả như hoa héo.

Giờ chết.

x

x x

– …Nam mô A di đà, đá tha già đá giạ, địa giạ gia tha, a dị dô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá, tỳ ca lan đế, a ly lỵ đá tý ca lan đá già di nhị, già già na, chi đá ca lệ sa bà ha…

Các vị sư áo vàng chuyển cao giọng đọc ” Vãng sinh tịnh độ thần chú”. Món quà hào phóng gửi cho những cung nữ sắp bước lên giàn thiêu.

Quan Thái bảo đứng trên lầu, dõng dạc:

– Các cung nữ ! Hôm nay, các người là những kẻ may mắn, được hoàng triều đặc biệt chọn ra để đi theo hầu hạ đức Tiên hoàng ở cõi cực lạc cho trọn. Đức Phật Thích ca lúc sinh thời từng truyền dạy:” Từ cõi trần này sang phương Tây, qua bao nhiêu cõi khác, đến một cõi thế giới gọi là Cực Lạc Thế Giới. ở đấy có Đức Phật A di đà hiện đang thuyết pháp để giáo hoá chúng sinh, mà chúng sinh trong cõi ấy không có mọi sự khổ, chỉ hưởng mọi sự sướng cho nên gọi là Cực Lạc…”. Giờ đến cõi Cực Lạc của các ngươi đã điểm. Thủ lễ !

Quan thủ lễ run tẩy, sắc mặt tái xanh, đón lấy con dao nhọn ánh màu xanh biếc như da rắn lục, lẹ làng cắt cổ đôi uyên ương do một đao phủ mang tới, hứng máu vào bồn ngọc, quì lạy bốn phương rồi nhúng móng tay trỏ dài như vuốt chim ưng vào hào rượu máu vẩy ra bốn phương tám hướng, miệng lầm rầm khấn.

Rồi thủ lễ nhúng cả tay vào chỗ rượu máu uyên ương còn lại, vạch lên trán mỗi cung nữ đang run rẩy một hình tam giác đỏ đọc. Cái hình tam giác nổi bật trên những vầng trán đàn bà nhợt nhạt mà trước giờ dần còn được ủ trong nhung lụa. Một mùi tanh lợm của máu uyên ương hoà lẫn mùi rượu được ngọn gió hung hãn thổi xộc lên tận chỗ đức vua ngồi khiến ngài lợm giọng.

x

x x

Cánh cửa sơn đen dưới chân lễ đài bật mở.

Bốn mươi chín đao phủ lầm lì trong những áo choàng cũng màu đen phủ kín từ đầu đến chân chui ra như lũ ngạ quỷ bước lên từ địa ngục.

Đám đao phủ rạp đầu vái lạy bốn phương tám hướng.

Những tiếng thét thất thanh bật lên trong đám dân chúng đứng xa xa bên kia đảo Âm Hồn. Riêng bốn mươi chín cung nữ vẫn cam chịu, câm lặng như đã chết.

Lũ đao phủ đồng loạt quay về hướng bắc, lừ lừ bước tới bên các cung nữ.

Tay mỗi đao phủ giơ ngang một áo choàng phụ nữ đỏ tía, tới sát bên mỗi cung nữ, rồi nhất loạt rũ tung áo xoè lên cao qua đầu và như những con diều hâu khổng lồ, chiếc áo choàng đã trùm kín đầu những kẻ tội nghiệp đang bị buộc phải đi tắt lên Niết bàn. Trong khi tay trái giữ đầu, tay phải đao phủ thoăn thoắt kéo gấu áo. Một trăm cung nữ đã biến thành một trăm cuộn vải đỏ rực máu.

Giải khăn sô chít ngang quanh đầu những kẻ sắp bị thiêu sống thõng xuống lắt lay tận gót.

Quan Thái bảo Lý Trác hài lòng nhìn khắp lượt những cuộn vải đỏ. Ngài tự hài lòng với chính mình. Trước khi các cung nữ lên giàn thiêu, ngài đã đón một đại sư về kinh thành thuyết giáo cho họ về nghĩa vua tôi, sự khổ ải cần phải được kết thúc sớm nơi trần thế và chuẩn bị cho các cung nữ học cách dọn mình bước qua cái đau đớn thể xác do ngọn lửa mang lại mà nhanh chóng nhập vào cõi Cực Lạc. Sau lời thuyết giảng của Đại sư, nhiều kẻ trong đám cung nữ đã dập đầu cầu mong cho chóng đến cái ngày được bước lên giàn thiêu.

Mắt Lý Trác chợt dừng lại ở cuộn vải đỏ cuối cùng đang bùng nhùng, cựa quậy dữ dội. Mặt quan Thái bảo cau lại.

Gã đao phủ đang lúng túng bởi chiếc áo trùm quá dài so vói thân hình bé nhỏ của người cung nữ đứng ở cuối hàng. Từ trong mớ vải lùng nhùng, một tiếng thét con trẻ đột ngột lanh lảnh bật lên.

Trên đài cao, Thần Tông nghe tiếng thét mà lạnh gáy. Ngài ngự cố khom người cúi xuống nhìn cho rõ cái đầu bướng bỉnh đã trồi ra khỏi chiếc áo trùm. Thì thấy dưới vầng khăn sô là một gương mặt thon mềm non như vầng trăng đầu tháng. Đôi mắt trong như mắt mèo hoang mở muốn đứt khoé vì sợ hãi. Thần Tông giật mình nhận ra đó là Ngạn La, cô cung nữ mười hai tuổi, được tuyển vào cung hai ngày trước khi Tiên đế băng hà.

x

x x

Nhất thập…Nhị thập…tam thập …tam thập nhất… tam thập nhị…tam thập tam… Tiếng hô của quan thủ lễ dóng lên, đếm nhịp cho từng toán đao phủ kéo các cung nữ bước lên sạn đạo đi vào giàn thiêu trên đảo Âm Hồn.

Trống lớn dội lên như sấm động.

Chuông cầu hồn lại gióng dả ngân vang. Cao vút trên tiếng kèn đơn tấu của giàn nhạc cung đình.

Tiếng nức nở cố kìm nén rưng rức bật lên giữa rừng người. Những bà mẹ đau ruột khi thấy đứa con bao năm xa cách nay đang bước lên giàn thiêu đợi chết.

Tiếng khóc át cả tiếng kinh cầu siêu độ chúng sinh đang cố cất cao từ đám các nhà sư áo vàng.

Dưới ánh mặt trời gay gắt, chen giữa màu đỏ những chiếc áo chết của các cung nữ, màu đỏ của hình tam giác vẽ bằng máu uyên ương trên các vầng trán của họ, màu đỏ của các súc gỗ làm sạn đạo, cái màu đen sẫm như cánh qụa của những chiếc áo choàng đao phủ gợi những bữa tiệc máu âm phủ. Soi bởi nước hồ trong vắt và bầu trời lồng lộng trên cao, cái cảnh tượng quái gở đó được phóng to ra vô tận.

Chung quanh chân lầu trắng, các phiến gỗ thông đã được xếp lên tự bao giờ. Những túi da trâu căng phồng đựng đầy dầu tưới lên đám củi.

Các đao phủ lần lượt vác từng cuộn vải đỏ đặt trên đống gỗ thông. Bàn chân nhỏ nhắn của các cung nữ đặt trên các phiến gỗ thông đẫm dầu. Họ được buộc chặt vào những chiếc cọc lớn cũng bằng gỗ thông tưới dầu đã được chôn sẵn. Chỉ chờ người cung nữ cuối cùng lọt vào giàn thiêu là lửa sẽ bùng lên.

Tất thảy cung nữ không một tiếng kêu la, không một lời than khóc. Họ chỉ còn thân xác mà mất đâu hồn vía. Chỉ mơ hồ nghe xạc xào bên tai tiếng gào khóc của những người thân đang đứt từng khúc ruột bên kia hồ.

Bây giờ thì quan Thái bảo không ngăn những tiếng khóc. Ngài muốn mọi người hiểu rằng những tiếng khóc đó không phải dành cho các cung nữ xấu số mà là lòng dân trăm họ thương tiếc vị hoàng đế mới băng hà.

Bỗng lại một tiếng gào xé ruột nữa làm rách toang bầu không khí câm lặng. Tiếng gào đó vỡ ra từ dưới chân chiếc lầu trắng tang tóc, khi gã đao phủ khổng lồ gần như dốc ngược cung nữ Ngạn La trên vai, mang tới giàn thiêu. Nàng là người cung nữ thứ bốn mươi chín cho lễ hiến tế. Ngạn La vừa gào thét vừa rúm thân gồng người cắn mạnh vào bàn tay hộ pháp đang thít chặt bờ vai mảnh dẻ của cô. ” Buông ra! Đồ chết giẫm! Buông ngay! Đồ ăn thịt người!”.

Tiếng kêu thảng thốt chợt thức tỉnh bốn mươi tám cung nữ còn lại.

Họ cho rằng mình đã chết từ khi Tiên đế đế băng hà, như vô cảm khi đặt chân lên chiếc xe tang có gắn hoa mẫu đơn màu đen, khi đặt chân lên sạn đạo và bị lôi đi xềnh xệch trong những bàn tay đao phủ. Tiếng gào xé ruột của Ngạn La đã đánh thức họ, báo cho họ biết rằng nàng và họ đang là những linh thể sống.

Bốn mươi tám cái cổ họng đồng loạt rú lên bốn mươi tám tiếng rú tắc nghẹn. Tiếng rú được nối dài bởi hàng ngàn tiếng rú phẫn uất của rừng người. Thần Tông ôm ngực lảo đảo. Quan Trung thừa Mâu Du Đô ngồi phịch xuống thở hổn hển, mồ hôi rịn ra trên trán.

Thái bảo Lý Trác cũng rợn tóc gáy. Nhưng quan Thái bảo cố trấn tĩnh, mím miệng giơ lá cờ ngũ sắc trong tay lên phát lệnh.

Lửa lập tức bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo cũng bùng cháy như một con giao long khổng lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ mà nuốt trọn đảo Âm Hồn.

Trong bóng lửa và khói đang cuồn cuộn bốc cao, thấp thoáng bóng các đao phủ và hoả công vun vút nhẩy lên những chiếc thuyền đợi sẵn, phóng như tên về bờ bên kia.

Trên mặt hồ chỉ còn các phiến gỗ sơn đỏ nổi lềnh bềnh như những thây người bị xử trảm trong tiếng rú man dại của các cung nữ con cơn quằn quại trước khi linh hồn về với cựu hoàng.

Nối dài những tiếng gào thét, các đôi công, trĩ, uyên ương bị trói chân trên nóc giàn thiêu cũng đồng loạt bật lên những tiếng xé ruột.

Đảo nhỏ biến thành đảo lưả.

Trên cái nền đỏ ấy, nổi bật những bóng đàn bà nhẩy dựng lên trên những phiến gỗ thông ngùn ngụt cháy, chới với hai cánh tay lên trời rồi lảo

đảo gục xuống, bùng lên như những bó đuốc. Mùi tanh lợm của thịt người, của lông chim cháy cuồn cuộn bốc lên phủ khắp vùng.

x

x x

… Nếu con đến địa ngục

Địa ngục liền trống không

Nếu con đến Ngạ quỷ

Ngạ quỷ liền no đủ…

Tiếng niệm Phật, tiếng tụng kinh rối rít dồn dập phiêu dạt trong những cuộn khói dật dờ đen đặc được bốc lên từ thịt người.

Đám dân chúng như bị gió lốc xoáy, như lúa đổ rạp từng đám sau trận cuồng phong. Những người đàn bà bị ngất vì đau đớn đổ đống lên nhau, át cả những hồi chuông dóng dả và tiếng tụng kinh không mệt mỏi cầu siêu cho người chết.

Khói giàn thiêu bốc đọng thành một đám mây hình lưỡi tầm sét õng máu treo lơ lửng ngang trời Na Ngạn.

Thần Tông ôm bụng. Ngài khóc. Hai chân ngắn ngủn giẫm đất bình bịch. Ngài ngự nôn thốc tháo.

Đám cung nữ hấp tấp nâng vạt áo lụa hoa đào của họ lên để kính cẩn hứng lấy những gì vừa thổ ra từ trong dạ ông vua trẻ. Khi vua mở được mắt, định thần nhìn lại thì thấy Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác đang quì rạp trước mặt mình : ” Tâu bệ hạ….” Thần Tông nhìn thấy trong cánh tay sắt của gã đao phủ lực lưỡng cái vầng trăng non nhỏ nhắn ướt sũng và chiếc áo chết đỏ bầm. Cung nữ Ngạn La.

Ngạn La quì rạp đập đầu xuống đất : ” Bệ hạ…! Xin hãy bảo cái ông ác này thả tôi ra! Tôi đã làm gì nào? Tại sao các người lại muốn đốt chết tôi ?”. Trong cơn kinh hoảng, đôi con ngươi biếc tím nở rộng hắt lên mặt vua một ánh mèo hoang man dại.

Thần Tông như bị đánh trúng tim.

Ngài nhớ đến trò chơi hồi nhỏ.

Ngài từng giữ một con mèo tam thể trong tay và một cung nhân dí con chuột bạch bé nhỏ run rẩy sát miệng mèo. Trong mắt chuột bạch cũng hắt lên sự kinh hãi và vẻ man dại như vậy.

Đức vua mười hai tuổi động lòng thương xót.

Thần Tông biết, nàng là người cung nữ nhỏ tuổi nhất trong cung, vô tình lại đồng niên cùng ngài. Nàng vừa mới rời cánh tay mẹ. Một ý nghĩ chạy thoáng qua đầu kiến tim Thần Tông nhoi nhói.

x x x

Buổi chiều ngày Đinh mão, tại điện Vĩnh Quang, thần chết đã cận kề làm trắng dã đôi mắt, tái xám làn da và đôi gò má nhô lên nhọn hoắt của phụ hoàng. Người ta đưa cung nữ Ngạn La tới. Nàng như một lạ lẫm, thơ trẻ, dẻ và linh động, uyển chuyển như một nhành liễu, khác hẳn vẻ đài các và thuận thục của các gái đẹp đã chứa đầy trong hậu cung. Nàng chỉ là một viên ngọc lạc loài đang lẫn trong đá sỏi mà phụ hoàng đã chợt nhặt được khi ngài trên đường đi hành lễ tại chùa Báo Thiên. Dương Hoán nghe nội thị kể lại, khi xa giá đi qua, dân chúng phủ phục hai bên đường không dám ngẩng nhìn trộm mặt rồng. Bỗng từ đám lúa dưới ruộng bùn, một cô gái lưng đeo chiếc giỏ bắt cua nhỏ xíu lem nhem đầy bùn đất chạy ào lên đón trước kiệu vua, hăm hở nhìn đoàn xa giá không chút sợ hãi. Như trẻ con lần đầu nhìn thấy vật lạ. Rồi cười khanh khách.

Quan hộ giá sợ hết hồn, vội thét : ” Thích khách ! Bắt lấy thích khách !”

Đám đông náo động.

Lập tức cô bé Ngạn La bị bắt dẫn tới trước kiệu rồng, trước trùng điệp đám lính gươm giáo tuốt trần sáng lạnh như nước.

Đức Nhân Tông cau mày, nhìn chiếc giỏ cua bé xíu ngang hông cô bé, nhớ lại chuyện đức phụ hoàng Thánh Tông trong một lần đi kinh lý về miền quê Kinh bắc đã gặp một cô gái hái dâu, đem về cung trở thành Nguyên phi Y Lan, rồi sinh hạ ngài.

Lưỡi đao sáng loáng kề cổ, cô bé vẫn lặng im. Tên thị vệ dùng sống đao hất ngược cằm. Gương mặt nhỏ nhắn ấy vừa ngẩng lên đã làm Nhân Tông sững sờ. Vẻ đẹp hoang lạ của cô bé bắt cua khiến vị hoàng đế già vốn đã no chán với những vưu vật của hậu cung bỗng thấy sửng sốt và hào hứng.

Trái tim già nua của ngài như được an ủi.

Ngài náo nức lệnh ngay cho giám quan vời nàng vào cung.

Nghe nói khi được quan Nội thị dìu lên kiệu hoa, cô bé bắt cua đã gào thét gọi mẹ, cào cấu chảy máu bàn tay ông ta. Nữ quan trông coi các cung nhân đã mất nhiều công dỗ dành nàng. Bất hạnh cho đức tiên hoàng, khi con thú nhỏ được thuần phục dâng đến trước mặt ngài thì ngài chỉ còn là một bộ xương được quấn trong lớp da bệch như sáp.

Thần Tông nhớ rất rõ, Ngạn La đã hãi hùng thét lớn : ” Ma !”. Và bỏ chạy. Thật may mắn là lúc đó hoàng hậu, các hoàng thân, nội giám và các quan mải lo lắng chờ đợi những lời trăng trối của phụ hoàng không còn ai nhớ tới việc trừng phạt Ngạn La tội khi quân.

Lúc đó, quên cả không khí đau buồn, Dương Hoán đã bật cười rồi chợt sợ hãi lấy tay bưng miệng… Dương Hoán đã nghĩ, nếu có cô bé này bày trò chơi cùng thì chắc sẽ rất thú vị. Cô ta hẳn sẽ không nhàm chán như bao nhiêu cung nhân chỉ một mực sợ hãi chiều chuộng, mong được yên thân hoặc đón chờ ân sủng…

x x x

Gương mặt và tiếng nói của cung nữ Ngạn La cũng làm quan Thái bảo Lý Trác chợt rùng mình. Không phải tuổi trẻ và vẻ đẹp mèo hoang của cô cung nữ có thể làm xúc đông một con người sắt đá như quan Thái bảo. Xưa nay theo luật lệ triều đình, các quan văn võ không bao giờ được đặt chân vào chốn hậu cung. Trừ khi có lệnh triệu vời đặc biệt của hoàng thượng. Những lúc đó có bất chợt gặp cung nữ nào thì cung nữ nghiêng mình cúi đầu nâng khăn che mặt, đại quan rảo chân bước mau mắt nhìn thẳng….Nhưng lúc này không thể cưỡng lại, mắt Lý Trác cứ trân trân nhìn cô cung nữ bé nhỏ đang quì gục trước mặt đức vua kia. Như có một bàn tay của ai đó vừa thò vào, giật mạnh trái tim ra khỏi lồng ngực quan Thái bảo. Một cảm giác sợ hãi đến ớn lạnh bóp nghẹt Lý Trác. Quan Thái bảo lập cập vòng tay trước nhà vua, giọng bất chợt như người hụt hơi :

– Muôn tâu bệ hạ….. xin lệnh cho trừng phạt để giữ nghiêm phép nước.

Lưỡi đao sáng lạnh của đao phủ đã thọc hờ vào đúng chỗ mạch máu đang phập phồng trên cuống cổ mảnh dẻ.

Mùi tanh lợm và khét lẹt của máu, thịt người cháy vẫn phả đến từ đảo Âm hồn.

x x x

Và đám mây lưỡi tầm sét õng máu vẫn lơ lửng phía trên hoàng thành.

Thần Tông bậm cặp môi đỏ chót, suy nghĩ lao lung.

Tội Ngạn La trăm lần đáng chết. Luật triều đã định, khi vua băng hà, tất cả các cung nữ phải lên giàn thiêu chết theo vua. Nhưng Ngạn la đã vùng ra khỏi tay đao phủ nhẩy xuống hồ nhanh như một con rái cá hòng trốn thoát. Mờy gã đao phủ lực lưỡng đã tóm lấy Ngạn La kéo lên bờ.

Trước mặt đức vua, Ngạn La vẫn run bắn người, cố ngoẹo cổ cố tránh lưỡi thép lạnh buốt như rắn. Nàng rũ xuống, lả đi. Rồi tỉnh dậy ngay sau vài khắc, giẫy giụa điên cuồng trong tay đao phủ. Những tiếng gào khóc nghẹn giọng trong cổ họng mỏng manh khiến gỗ đá cũng phải mủi lòng “…Các người thật độc ác…Xuống âm phủ ta sẽ xin Diêm vương cho ta trở lại làm quỉ dữ để thiêu chết các người …Mẹ ơi ! Người ta giết con. Mau cứu con ! Mẹ ơi !…”.

Thần Tông như ngồi trên đống lửa. Đôi mắt sắc lạnh và lưỡi gươm của đao phủ đang chờ cái gật đầu của ngài để kết liễu đời cung nữ Ngạn La. Trước

mắt ngài mờ mờ ảo ảo hình chiếc đầu nhỏ có đôi mắt con ngươi tím kia lìa khỏi cổ dưới lưỡi dao đao phủ.

Mười hai tuổi nhưng ngài đã kịp nhìn thấy nhiều chiếc thây cụt đầu. Nhưng đó là những thây người lớn. Còn đây lại là con mèo con uyển chuyển và hoang lạ….Và mẹ nàng. Mẹ nàng là ai ? ….Ngài bỗng thấy thương xót người đàn bà đó.

Một giấc mơ như làn khói xám nhen tới, lan toả trong tâm trí Thần Tông. Dường như ngài đã trải qua một cuộc hành trình mà ngài vừa là người đang đi trong cuộc hành trình đó, lại vừa phân thân bay trên cao để nhìn ngắm lại chính mình.

Hình như lúc đó ngài là một người khác. Hình như là một người đàn ông bốn mươi sáu tuổi, bỗng thoát xác hoá thân đầu thai vào bụng một người đàn bà đã khô héo , để được sinh ra thành đứa hài nhi mang tên Dương Hoán, nén lòng chờ đợi mười hai năm để kế vị ngai vàng. Vì thế, đôi lúc, ngài không khỏi ngạc nhiên khi chợt nhận ra mình bỗng già dặn như một người đàn ông từng trải, lúc lại chỉ là một đứa trẻ non nớt thích những trò nghịch ngợm. Lúc đợi phút chào đời, ngài đã thấy rõ mồn một những bắp thịt và cái tử cung êm ái bao quanh mình bỗng quặn thắt, vò xé mãnh liệt, những cơn gào thét đau đớn của người đàn bà mà ngài mượn dạ để đầu thai…Bao nhiêu máu của người đàn bà ấy đã chảy để sinh ra ngài. Ngài biết lúc đó trái tim bé nhỏ của ngài đã đập dồn hồi vì thương xót bà ta. Ngài ân hận tại sao nỡ làm một người đàn bà đau đớn đến nhường ấy. Trong một phút chốc, ngài đã ngập ngừng chẳng muốn ra đời…

Thái bảo Lý Trác vẫn quì trước mặt, giọng đã hơi gằn :

– Muôn tâu….Xin bệ hạ đại xá cho thần tội khi quân. Thần buộc phải dùng lời nói thẳng..Nghiêm minh là điều tối trọng của phép trị nước. Xin…Xin bệ hạ xuống lệnh lập tức chém bêu đầu con nghịch nữ này để làm gương răn kẻ khác….

Từ trên đài cao, Thần Tông đưa mắt nhìn quanh. Cả một rừng người, rừng cờ xí chăm chắm nhìn về phía ngài. Ngàn con mắt dõi theo ngài. Trong đám mấy trăm vị quan phẩm phục chỉnh tề kia có bao nhiêu kẻ khẩu phục nhưng tâm bất phục, bao kẻ mắt sáng rỡ ngước nhìn mà trong tâm đang thầm giễu cợt ngài, vị vua thơ trẻ ? Và có kẻ nào thương xót cho cô bé này không ? Lẽ nào bốn mươi chín cái chết thiêu đau đớn nhỡn tiền không mảy may làm rung động một thớ nhỏ nào trong tim họ ?

Thần Tông toát mồ hôi.

Ngài muốn lập tức tha Ngạn La. Nhưng ngài lại sợ quan quân trong triều và dân chúng vì vậy mà sinh khinh nhờn ngài, mầm mống của sự dấy loạn sau này.

Thái sư và cha ngài – Sùng Hiền Hầu hoàng thân đã dạy từ khi ngài còn mới biết đọc những chữ đầu tiên. Khổng Tử nói” nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng Thái sư nói ” nhân chi sơ tính bản ác. Nếu không lấy uy trị nước, cái ác ở trong dân chúng sẽ trỗi lên thành ác loạn”…

Thần Tông vẫn nhìn xuống đám đông, thôi thúc ngài tìm kiếm, mong có một bàn tay đưa ra từ phía hàng quan nhất phẩm. Mong một lời lên tiếng tâu xin tha chết cho Ngạn La.

Nhưng chỉ có những gương mặt câm lặng.

Lẽ nào những điều ” nhân nghĩa… ” ghi chép đầy rẫy trong muôn vàn pho sách chất chồng trong các tủ gỗ qúi ở Quốc tử giám nơi Thần Tông cùng các hoàng tử trong triều vẫn thường ngày đêm dùi mài học tập lại chỉ là những lời rao giảng sáo rỗng ?

Biết bao chùa chiền nguy nga đã dựng lên từ đời Đức Thái Tổ sáng nghiệp, chùa nào cũng thờ hai chữ Từ bi. Vậy mà sao những con người trước mặt ta kia lại cứ câm lặng trước một sinh linh nhỏ bé vô tội sắp lìa đời ? Phải chăng luật lệ quá khắt khe khiến cho các quan trong triều của một vị vua được tiếng là nhân đức như Tiên hoàng Lý Nhân Tông cha ta mà lúc này cũng chỉ là một dẫy hình hài câm lặng ? Vậy thì thân phận đám dân đen gầy guộc mắt trũng, suốt ngày quần quật trên đồng ruộng để kiếm bát cơm, một con chữ bẻ đôi không biết kia sẽ còn cùng cực đến mức nào ?….Thần Tông chán nản thở hắt ra. Hơi thở dài của một người lớn tuổi, đã nếm trải nhiều nỗi đắng cay trong cõi đời.

Nhưng kìa, một vài cánh tay giơ ra từ cái đám người đang phủ phục. Mắt Thần Tông sáng lên.

Đã có dăm bẩy, rồi mấy chục người đã bạo gan ngẩng đầu lên giữa hai khuỷu tay. Tiếng nài xin của họ bay theo luồng khói tanh tưởi vọng vào tai Thần Tông :

– Chúng con xin ngàn lạy vạn lạy bệ hạ tha chết cho cung nữ Ngạn La. Ngàn lạy bệ hạ…!

Liền đó ngự lâm quân xốc nách dìu tới một người đàn bà gương mặt thì còn trẻ nhưng lưng đã hơi còng và mái tóc bạc trắng như một bà lão… Cái tát của viên ngự lâm quân hộ pháp khiến mặt người đàn bà bê bết máu. Nhưng đôi mắt người đàn bà thì vẫn rất mực sáng láng, anh minh dưới đôi mày thưa dựng ngược.

– Xin bệ hạ cho tiện dân được thưa một lời…Kẻ tiện dân này biết tội mình đáng chết. Nhưng tiện dân xin có vài lời, rồi dẫu chết cũng cam lòng.

Thần Tông hăm hở:

– Bà…cứ nói !

Người đàn bà lấy tay vuốt dòng máu đang ri rỉ từ vết thương trên đầu xuống loang đỏ khuôn mặt :

– Bệ hạ ! Người phải gánh cả một giang sơn. Nay trong thiên hạ thiếu người trung nghĩa. Thiếu kẻ dám nói những lời thành thật vào tai bệ hạ. Ai mà chẳng hiểu việc thiêu người vô tội chết theo vua là một phép tắc độc ác, man rợ ! Nhưng không ai dám nói một lời để ngăn cản. Nếu cứ để nước Nam ta giữ những phép tắc man rợ thì sẽ tổn hại khôn xiết đến triều đình và muôn dân .

Đôi mắt Thái bảo khu mật sứ Lý Trác đã rời khỏi cung nữ Ngạn La, giờ chằm chằm nhìn vào người đàn bà như muốn nuốt chửng. Đôi con ngươi quan Thái bảo vằn máu rồi thu nhỏ lại, săc lạnh như mắt cọp bắt mồi.

Lý Trác bậm môi cố săn tìm trong mớ ký ức đã khô cứng. Sao trong giọng nói và dáng điệu của mụ già này có cái gì đó quen quen. Cái ánh mắt sắc tựa dao cau và giọng nói sang trọng kia thật chẳng giống một người đàn bà quê mùa nghèo khổ.

x x x

… Tháng tám…cuối thu … Các học trò đeo tay nải lục tục lên kinh ứng thí … Cái gã học trò người nhỏ nhắn, vác tay nải màu vàng mang tên Lê Đoá đi trước Lý Trác, ứng đối văn chương trôi chảy rành rọt, văn bài qua mỗi kỳ khảo thí đều đứng đầu bảng. Mỗi khi nói năng, đôi mắt sáng với đuôi mắt dài sắc tựa dao cau…

Phải rồi! Lý Trác vụt nhớ lại, Hội Tường đại khánh năm thứ nhất. Cái gã học trò nhỏ nhắn đó đỗ cùng khoa thi. Cả Lý Trác và Lê Đoá cùng được bổ làm quan văn trong triều. Nhưng linh cảm bén nhạy của Lý Trác cứ cảm thấy điều gì không bình thường ở Lê Đoá…Lý Trác nhớ, bữa yến tiệc cuối năm ấy đã như ong vỡ tổ khi Lý Trác dùng mưu mẹo lột khăn áo của Lê Đoá, để lộ cái yếm bằng gấm màu hoa đào che bộ ngực nở nang đang bị nén chặt của một cô gái giả trai.

Lê Đoá ngất xỉu trong cái nhìn hả hê của Lý Trác. Tiên hoàng Nhân tông nổi trận lôi đình, toan chém tiểu thư Lê Thị Đoan về tội dám đổi tên, giả trai đi thi, phạm luật lệ triều đình. Cuối cùng, vì thương bậc tiểu thư tài sắc, nể lời quốc sư Lý Đạo Thành nên tha chém, phạt tội đi đày biệt xứ. ..

Đã mười mấy năm rồi, từ một anh học trò cắp ống quyển đi thi, Lý Trác đã trở thành vị quan nhất phẩm triều đình. Vẫn tưởng cái người phải oán hận ông ta đến trọn đời ấy đã chết trong chuyến đi đày. Ai ngờ hôm nay !…

Lý Trác nhìn lại, như để chắc chắn thêm một lần nữa về trí nhớ hiếm có của mình, rồi dõng dạc:

– Đao phủ! Mau đem mụ già xấc xược ngông cuồng này ra chém để làm gương cho thiên hạ!

Nhưng Thần Tông đã đưa bàn tay xanh lướt của ngài ra ngăn lại :

– Khoan. Cứ để người này nói. Ta muốn nghe !

Người đàn bà được thể vội tiếp lời. Giọng bà bỗng rền vang trên đầu mấy trăm vị quan trong triều khom mình thin thít :

– Bệ hạ…Xưa kia nước Nam ta không có thói coi đàn bà như cỏ rác. Chỉ từ khi du nhập phong tục của Bắc phương mới sinh hư thói này. Muốn đánh thì đánh, muốn giết thì giết…Từ thời Đức Lạc Long Quân tổ tiên ta xưa, chưa từng có lệ bắt vợ chết theo chồng. Vậy mà nay triều Lý ta sửa sang điển lệ, lại lấy việc thiêu sống cung nữ làm phép nước, khiến bao mạng nữ nhân đẹp đẽ tài giỏi vô tội phải chết oan.

Lý Trác gầm lên ngắt lời:

– Lê Thị Đoan ! Ngươi là kẻ giả trai đi thi, lẽ ra phải bị chết chém, nhưng đức Nhân Tông thương tình, chỉ bắt đi đày biệt xứ . Ân đức ấy, không chỉ ngươi mà cả họ nhà ngươi còn phải cảm kích đến hết đời, sao nay còn dám mở miệng sàm tấu, chê trách trời cao biển rộng? Tội ngươi đáng chém ngang lưng. Tâu Bệ hạ ! Lời của mụ già này không đáng để vào tai. Xin Bệ hạ xuống lệnh cho chém ngang lưng ngay lập tức !

Thần Tông khoát tay:

– Cứ để mụ ta nói!

Người đàn bà quay phắt về phía Trác, mắt nảy lửa:

– Lý Trác! Thiết tưởng, giả trai đi thi, dẫu trái lệnh triều đình, nhưng ta có làm như vậy, chẳng qua cũng chỉ muốn đem chút gan óc của phận gái mà giúp rập quốc gia. Như vậy, phỏng có tội gì? Sao nặng tội bằng những kẻ lạm dụng quyền thế để làm muôn việc ác, coi mạng người như cỏ rác, chỉ chăm lo vơ bạc vàng cho đầy túi tham…. Tất cả những ai không hợp ý ngươi, dám có lời khác với ý ngươi, hoặc không chịu cung đốn quỵ lụy, ngươi vu cho kẻ đó tội bất trung mà hãm hại. Lý Trác ! Quốc gia suy yếu chính vì những kẻ như ngươi !

Lý Trác sấn tới, xô người đàn bà ngã đập đầu xuống đất, chân giẫm lên tấm thân già đang lẩy bẩy.

Quan Trung thừa Mâu Du Đô từ nãy vẫn im lặng, vẻ mặt căng thẳng giờ bước lên can :

– Quan Thái bảo! Xin hãy kiên nhẫn. Hoàng đế đang muốn nghe người này nói!

Thần Tông ngồi lặng. Trí não non nớt của ngài chưa theo kịp những lời của người dàn bà. Chân nới lỏng, mắt Lý Trác hằm hằm nhìn Mâu Du Đô đe doạ. Mâu Du Đô vờ không biết.

Người đàn bà đã lảo đảo đứng lên được, hướng về Thần Tông nói tiếp :

– Điều này khiến trong dân gian đua nhau bắt chước, kẻ hung hãn thì tiện bề đánh giết vợ con mỗi khi có điều trái ý. Bệ hạ há chẳng nghe trong dân gian xưa nay mỗi khi giám quan đưa lính đi tuyển cung nữ là lại gây bao cảnh tang tóc ư ? Đã không ít những cô gái đẹp con nhà khuê các khi được lệnh tuyển vào cung đã cắn lưỡi tự vẫn ngay trước mặt giám quan. Họ thà nhận sự đau đớn của cái chết cắn lưỡi còn hơn là cái mùi thịt khét da thiêu trên giàn…Chùa chiền mà làm gì. Đạo học mà làm gì… nếu người ta không thực hành thiện, mà chỉ mượn cái vỏ từ bi để che giấu cho những việc tàn bạo…!

Từ đám dân chúng rần rần bật lên tiếng khóc.

Lúc này Thần Tông càng nghe rõ tiếng chuông tiếng mõ. Tiếng chuông giờ này vẫn thong thả rải từng tiếng từ ngôi chùa Phổ Thiên cách đây chưa đầy ba dặm nhả lên bầu trời đọng khói. Tiếng mõ trầm đục u uất dội lên trong tay các nhà sư từ nãy vẫn đứng lặng chung quanh.

Đám dân chúng càng xáo động khi vị Thượng toạ áo vàng dẫn đầu đám các tăng ni bỗng bước tới trước mặt đức vua. Thượng toạ tay lần tràng hạt, mắt không dám ngước trông mặt rồng :

– Mô phật ! Kẻ tu hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp. Thấy đến bốn mươi chín chúng sinh bị thiêu sống trước mặt mà không cứu. Tự xét thấy chẳng còn mặt mũi nào đến trước bàn thờ Phật. Ngẫm ra, trong chiếc áo cà sa này cũng chỉ là thân xác của kẻ phàm tục giá áo túi cơm mà thôi. Thật chẳng bằng một lão bà nghèo hèn chốn quê mùa kia! Lão bà nói đúng. Đức Nhân Tông và các vị tổ nghiệp đã làm nên nhiều chiến công hiển hách, tôn vinh giống nòi Lạc Hồng. Công lao thật sánh tầy núi Thái Sơn kia. Nhưng phép tắc của triều đình quá hà khắc đã thắt ngang họng những kẻ nói thật. Bệ hạ, xin người hãy gia ân cho cung nữ Ngạn La và nhân đây bỏ lệ thiêu sống cung nữ để được tiếng đem cái nhân mà trị thiên hạ. Được vậy, non sông nhà Lý ta sẽ thêm trường tồn, bội phần rạng rỡ.

Thượng toạ vừa dứt lời, lớp lớp nhà sư áo vàng áo nâu chung quanh liền quì sụp xuống. Âm âm bao phủ quanh đức vua lớp lớp sóng của những lời tụng niệm : Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm bồ tát…Nam mô cứu khổ cứu nạn…

Thoáng thấy vẻ lưỡng lự trong ánh nhìn của vua, Thái bảo Lý Trác vội lên tiếng :

– Muôn tâu…Xin bệ hạ chớ nghe lời sàm tấu của những kẻ biến tâm, ngu xuẩn. Những kẻ đó không phải giữ giang sơn nhà Lý trong tay….Xin bệ hạ tha cho thần tội bất kính. Tự cổ chí kim chưa có một vị hoàng đế nào trị nước giỏi mà không gĩư nghiêm phép nước. Xin cho chém nghịch nữ Ngạn La và mụ già loạn ngôn này….

Tiếng cười khanh khách của người đàn bà cất lên. Ngón tay trỏ cong queo như một mẩu rễ cây rừng chỉ thẳng vào mặt Lý Trác :

– Con chó già giữ cửa cái thâm cung bấn loạn kia ! Há ngươi chẳng nhớ chính em gái ngươi vừa mới bị chôn sống theo Linh Nhân Hoàng Thái hậu? Ngươi đưa em gái vào hầu hạ Thái hậu, chẳng qua chỉ để lấy mạng sống của người em ruột rà để mua chuộc lòng tin yêu của Thái hậu, để cho ngươi được cất nhắc vượt bậc mà thôi. Vậy mà ngươi chẳng biết thương lấy vong hồn đứa em ruột rà. Ngươi chẳng đã bức chết một nàng hầu của ngươi vì nàng đã trót liếc mắt đưa tình với một ngự lâm quân đó sao ? Ta khá khen cho ngươi dám mở miệng nhận là tôi trung của nhà Lý. Nhưng ngươi có biết rằng cái trung quân của nhà ngươi đã khiến cho thiên hạ đầu rơi máu chảy, bao oan hồn đàn bà xoã tóc đang đứng vây quanh nhà ngươi đó. Ngươi có thấy chăng ? Nay ta lấy cái chết của ta để cảnh tỉnh cõi đời u ám…Chỉ thương cho nhưng kẻ thời thế đã thay đổi mà cứ khư khư gĩư mãi những điển lệ man rợ…

Dứt lời, người đàn bà tức thì thè lưỡi ra giữa hai hàm răng, hất tay đấm ngựơc lên cằm. Mẩu đầu lưỡi đỏ hỏn văng vào mặt Lý Trác. Máu phun vọt lên từ miệng thành tia cầu vồng. Bà đổ vật xuống, hai mắt vẫn trừng trừng.

Lý Trác thất sắc nhẩy lùi lại mấy bước.

Thần Tông đứng dậy hất tung chén ngọc đựng nước sâm mà một cung nữ vừa dâng lên ngài. Chén ngọc rơi xuống bậc đá vỡ choang.

– Thôi…!

Ngón tay mảnh dẻ của đức vua chỉ thẳng vào cung nữ Ngạn La, quát :

– Cởi trói !

Ngập ngừng giây lát, Thần Tông nói tiếp :

– ….Nhốt lãnh cung !

Thái bảo khu mật sứ Lý Trác giật bắn người. Quay nhìn phía Ngạn La, khuôn mặt tái ngắt, Lý Trác sững sờ giây lát rồi như chợt nhớ đến sự việc trước mặt, lại qùi dập thân, đập đầu bồm bộp xuống mặt đất sỏi khô cằn mà kêu lên thống thiết :

– Muôn tâu…bệ hạ. Xin … chớ để mầm hoạ… !

Thần Tông không nghe thấy những lời của Lý Trác. Ngài ngự bước xuống đài cao, ngoảnh mặt về phương Nam, quỳ xuống:

– Ta thề trước trời đất quỷ thần…

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

/* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:”Table Normal”; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:””; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:”Times New Roman”; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

Ngưỡng u nhược nhi lưu phán

Phủ quế chi dĩ ngưng vọng

……..

Mậu Thìn. Quảng Hựu năm thứ tư.

Từ Lộ ngẩn ngơ bên cây đèn lồng thứ mười bẩy. Cây đèn lồng Mỹ nhân.

Chao đèn khảm hình một người con gái. Nàng giấu một nửa mặt sau tấm lụa, nghiêng nghiêng hiếng mắt, nụ cười hàm tiếu.

Từ châm lửa. Cây đèn toả rực, nhuộm căn nhà trong làn ánh sáng nâu nẫu hồng đào. Những sợi khói trắng đầu tiên vừa uốn lượn, gương mặt mỹ nhân lung linh chuyển động. Nụ cười với làn môi mọng, khoé môi lũm xuống như hai lúm đồng tiền được chiếu sáng từ bên trong, quyến rũ mê hồn. Bàn tay trái nàng cầm bút lông. Ngọn bút run rẩy trên một đoá mai chưa liền cánh, mỏng manh như khẽ động thì sẽ tan biến ngay vào thinh không. Lá mai mới lìa cành màu vàng sẫm tơi bời liệng trong gió xuân. Mỹ nhân mặc áo thiên thanh, quần tha thướt xếp nếp màu hồng đào rủ trên mặt đất. Eo lưng thon bó trong dây lưng lụa ngũ sắc kết nút bên hông buông chùng tới tận gót chân. Búi tóc nặng trĩu cuốn cao trên đầu cũng cài một cành chín bông mai trắng.

Từ Lộ say đắm ngắm gương mặt mỹ nhân. Đường viền đi qua cằm và hai mang tai không mềm dịu. Các mỹ nhân được coi là tuyệt sắc đương thời bao giờ cũng phải mang có chiếc cằm tròn và gương mặt nở nang như khuôn trăng. Nhưng chiếc cằm có đường viền cứng cỏi của nàng lại hoà hợp kỳ lạ với đôi mắt dài như hai nét bút bay bướm được phác qua bởi cơn thần hứng của một nhà thư hoạ, biến thành đôi dòng sông thăm thẳm khôn dò. Nửa buồn nửa vui, khoé mắt như nước đọng. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực đôi mắt là đường mày màu khói nhạt dường như hơi cau, đa đoan đến não lòng. Từ Lộ đã phải nhọc công vẽ đi hoạ lại cả tháng trời mới phang phác được cái nét cau cau quyến rũ đến thiêu đốt lòng người của nàng.

– Nhuệ Anh !

Từ bất giác gọi lên thành tiếng, rồi thổn thức áp mặt vào chao đèn lồng mang gương mặt người con gái. Toàn thân run rẩy. Dào dạt những đợt sóng yêu đương khao khát xô bờ.

Mỹ nhân là ái nữ của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, bạn đồng khoa của Từ Vinh cha chàng. Cách đây ba năm, Tăng Đô án Từ Vinh và quan Ngũ phẩm Tôn Trinh thực hiện lời hứa từ thủa cùng nhau lều chõng, cho đôi trẻ làm lễ

đính ước. Nhuệ Anh tiểu thư càng lớn càng đẹp. Bao nhiêu công tử con nhà danh giá dạm hỏi nhưng Tôn Trinh vẫn một lòng không bội ước vì đôi trẻ càng lớn lên càng quấn quýt, xứng đôi trai tài gái sắc. Hôn lễ sẽ được cử hành vào dịp cuối năm , khi Từ Lộ đủ mười tám và Nhuệ Anh vào tuổi trăng tròn.

Từ Lộ mong mỏi đêm Nguyên tiêu này từ hàng tháng trước.

Gia pháp hà khắc, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh cấm cung con gái từ lúc nàng đủ mười ba tuổi. Ngày ngày có thầy đến tận tư gia dạy kinh sách, lễ nghĩa, học vá may thêu thùa, dệt vải. Thi thoảng, những dịp hội chùa, lễ tết, ông cho con gái ra khỏi nhà. Mỗi khi đi nhất thiết phải có mẹ, thêm hai người hầu tháp tùng. Từ Lộ, dẫu là vị hôn phu, cũng chỉ được phép sang thăm mỗi năm vài ba bận, đi cùng Từ Vinh cha chàng. Mỗi lần gặp mặt, lúc đôi bạn già mải cuộc cờ, chén rượu, hàn huyên thế cuộc, đôi trẻ mới được mắt trong mắt ngắm nhau. Rồi Từ Lộ nâng cây sáo Tiêu Tương lên môi, thổi khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, mà tiếc rằng thời khắc sao vùn vụt trôi chẳng thương tình. Từ Vinh và Tôn Trinh lặng người lắng nghe tiếng sáo. Quan ngũ phẩm Tôn Trinh không tiếc lời khen ngợi :” Quả thực nghe như không phải người mà là thần tiên lựa hơi !”. Tăng đô án Từ Vinh không giấu nổi vẻ hài lòng nhưng vẫn cau mày: ” Hơi ngại. Tiếng sáo nghiêng về thanh chuỷ”.

Năm qua mưa thuận gió hoà, thiên hạ thái bình, lại dịp nhà Tống sắc phong vua Nhân Tông ta làm Nam Bình vương, đêm Nguyên tiêu năm nay[ Năm Quảng hựu thứ tư (1088).]triều đình mở hội đèn Quảng chiếu ở sân Long Trì. Tăng ni nối nhau đi quanh đèn tụng kinh niệm phật. Quan viên thắp hương làm lễ ” chầu đèn “. Quan Ngũ phẩm cho phép con gái yêu cầm đèn lồng đi chơi khoảng một canh, có người hầu gái tháp tùng. Nhuệ Anh tiểu thư rạng rỡ mặt mày, cả ngày nói cười ríu ran như chim hót. Nàng đã hẹn gặp Từ Lộ. Mỗi người sẽ mang theo một chiếc đèn lồng để làm hiệu nhận ra nhau trong đêm.

Càng gần tới đêm Nguyên tiêu, Từ Lộ chẳng thiết ăn uống, trong lòng lúc nào cũng hồi hộp, nao nức. Chàng đã mất bao công phu để hoạ bức hình Nhuệ Anh. Sau đó lại chạy đôn chạy đáo cậy thợ khéo nhất kinh thành khảm lên chiếc chao đèn. Nhuệ Anh trông thấy cây đèn này sẽ hiểu tình chàng dành cho nàng sâu nặng biết dường nào.

Ngoài kia, trời dần tối. Nao nức tiếng cười.

Từ Vinh phu nhân sai người đốt mười sáu ngọn đèn lồng.

Nước Nam ta vốn không có tục mở hội hoa đăng. Nhưng từ khi thắng trận, đức vua vui mừng, cho ngưòi đi học cách chế tác đèn lồng của thợ giỏi phương bắc, về dạy lại cho thợ kinh thành, rồi truyền mở hội. Được lệnh, những thế gia vọng tộc và những nhà có của ăn của để đều nao nức sắm đèn. Đây cũng là dịp để nhà nhà khoe giầu sang phú quí. Từ Vinh phu nhân cũng háo hức. Nguyên tiêu này đúng dịp cậu quý tử của bà tròn mười bảy tuổi. Bà đặt thợ khéo trong nội kinh làm cho mười bảy chiếc đèn lồng. Bà tin rằng, nếu những ngọn đèn lồng cháy đều, rực sáng trong hội hoa đăng, con trai bà sẽ luôn gặp may mắn và dòng họ Từ sẽ càng thêm thịnh vượng.

Cây đèn lớn nhất có hình sáu rồng chầu châu ngọc treo giữa nhà toả ánh sáng lộng lẫy rắc vàng lên những đồ gia bảo. Căn nhà lớn, cửa thấp, lối

vào hun hút sâu, hai bên rườm rà những bụi trúc quân tử không cắt tỉa, những gốc hoè cổ thụ hoa vàng. Từ Vinh phu nhân lướt qua các đồ vật được bày biện trong nhà, không giấu được vẻ hài lòng. Dinh cơ của Tăng quan đô án Từ Vinh càng khiến cho người ta kính nể vì vẻ huyền ảo và sang trọng. Mười một ngọn đèn lồng khác mang đủ hình mười một con giáp, hắt đủ mười một màu quây quần dưới mái hiên quanh nhà. Trên lầu cao, bốn chiếc đèn toả ánh tím rực như màu cầu vồng. Cùng với chiếc đèn lồng Mỹ nhân trên tay Từ Lộ, căn nhà rực rỡ như có mười bẩy mặt trăng mặt trời cùng chiếu rọi.

Từ Vinh phu nhân thong thả dạo gót ra trước bàn thờ, tra thêm trầm vào chiếc lò hương chạm bạc. Tự tay bà đánh bóng nhưng đồ tế tửu bằng vàng để đợi Tăng quan đô án xong việc ở trong cung thì về đốt trầm lễ Trời Phật thánh thần ông bà tổ tiên. Phu nhân nóng lòng ngóng ra cửa sổ. Sáng nay chồng bà vội vã cùng hai tên gia nhân rời nhà vào giờ tỵ, hẹn đến giờ mùi sẽ về, cùng vợ con sửa soạn cho ngày tết Nguyên tiêu. Nhưng bây giờ đã là đầu giờ dậu. Ngoài đường ngựa xe nhộn nhịp. Nam thanh nữ tú áo xiêm đẹp đẽ trâm cài ngọc giắt đổ về hướng thành nội. Phu nhân càng mong ngóng tiếng vó ngựa của chồng. Có lẽ đường đông quá, ngựa không trẩy nhanh được. Bà đưa mắt nhìn về phía Từ Lộ. Vẻ tuấn tú của cậu con trai khiến người mẹ nở nang trong lòng. Mới mười bẩy tuổi nhưng con trai bà đã nổi tiếng trong vùng vì sự học cũng như các môn cưỡi ngựa chơi cờ bắn cung, đợt khảo thí vừa rồi đã đỗ chức Tăng quan., Đã thế tiếng sáo của con bà còn được coi là ngón tuyệt chiêu không ai sánh kịp. Có người quá yêu đã ví tiếng sáo của Từ như tiếng đàn của Tư mã Tương Như, mỗi khi cất lên có cả đàn chim phượng bay về nhảy múa quanh người . Lòng tự hào về tài cầm kỳ thi hoạ của con trai nhiều lúc làm dịu đi nỗi lo lắng dội lên trong bà mỗi khi bà nhận thấy tính cương trực của Từ đôi khi hơi quá, đến mức thành ương ngạnh.

Tiếng chuông báo giờ tuất. Ngân nga như khẽ lay những bóng sáng rực rỡ muôn màu trong bóng đêm lạnh buốt. Từ Lộ với tay lấy chiếc sáo trên trên vách thư phòng giắt vào thắt lưng. Chùm tua đỏ lấp lánh chỉ vàng buộc đuôi cây sáo rủ xuống điểm nhịp bên hông, Từ Lộ xách đèn lồng Mỹ nhân, khoác thêm áo trừu, cúi đầu xin phép mẹ cuối giờ tý sẽ trở lại nhà. Dù cha chưa về, Từ Lộ không chút lo lắng. Một đêm đô hội như đêm nay, ngay cả kẻ cướp cũng mải vui chơi, cha chàng sẽ không gặp điều gì nguy hiểm. Có lẽ ông về muộn là bởi các bạn đồng liêu chèo kéo nán lại chút nữa trong nội kinh để thường ngoạn đêm hội hoa đăng hiếm hoi này. Không có gì đáng lo lắng. Cả ngôi nhà sáng rỡ, đầy ắp gia nhân. Mẹ cũng sẽ không có thời gian mà buồn vì đã có mấy bà bạn mới tới, tay ôm lồng ấp đang ngồi quây trên chiếc sập gụ giữa nhà. Họ sẽ chơi bài và ép nhau nhấp rượu phạt hay hoạ thơ liên vần trong lúc đợi cha chàng về vào tiệc Nguyên tiêu.

Ra khỏi cổng, Từ thoáng rùng mình vì lạnh. Kinh thành sáng như sao sa bởi muôn ngàn chiếc đèn lồng đủ hình đủ kiểu đang lung linh chiếu rọi. Trên cao xa kia, chiếc đèn lồng màu đỏ rực, lớn ngang chiếc cót thóc nhà nông phu, đang đung đưa khiêu khích trong gió, là chiếc đèn lồng nhà Diên Thành hầu, giàu có quyền thế lệch thiên hạ. Tiền để làm ra nó có thể mua cả một trang ấp. Cây đèn toả ánh sáng xanh lành lạnh, chao đèn mang hình đôi chữ Dũng, chữ nhân đứng trang trọng trước cổng một dinh thự bề thế, có hào

nước bao quanh, là của Thái uý Lý Thường Kiệt. Thái sư Lý Đạo Thành treo hai bên mái hiên rêu phong đôi đèn đơn sơ, chao đèn mang đôi chữ Nhẫn viết theo lối thư hoạ tuyệt đẹp. Rực lên như một bông hồng khổng lồ giữa nội kinh là khóm đèn lồng màu tía trên Càn Nguyên điện nơi hoàng đế thiết triều. Tử Cấm thành lộng lẫy uy nghi toả rạng vàng son, rõ rành là chỗ thượng đẳng dành cho thiên tử . Bao quanh Tử Cấm Thành, Thuý Hoa cung, Ngênh xuân cung, Long Đức cung, Long An điện và Long Thụy điện đêm nay cùng đua nhau khoe vẻ hào hoa, không hổ là nơi hoàng hậu, các phi tần và các hoàng tử cư ngụ. Tại Chính Dương lầu, Giảng Võ điện, Tập Hiền điện và trên bốn cổng thành Đại Hưng, Tường Phù, Quảng Phúc, Diên Đức, đều kết hàng chuỗi đèn lồng nhỏ toả ánh bạc như sóng sông Ngân lững lờ toả ra các hướng trên bầu trời. Trên những con đường trong nội kinh, theo lệnh của Đức hoàng đế Nhân Tông, cuộc thi đèn đã được khởi xướng. Các cung nữ, quan quân trong triều phải ăn mặc lộng lẫy, tay mỗi người xách mỗi cây đèn lồng nhỏ ngồi trên xe ngựa diễu quanh kinh thành để cho dân chúng được chiêm ngưỡng một bữa no mắt, hưởng ân sủng của hoàng đế nhân thời đất nước vào cơ thái bình thịnh trị.

Từ Lộ rảo bước qua cầu Tây Dương bắc qua sông Tô. A⬙nh đèn rực sáng của kinh thành phản chiếu xuống dòng sông. Con sông vốn bình lặng thường ngày đêm nay bỗng biến thành một dòng sông chở đầy sao. Những lá thuyền chài đêm nay không thiu thiu ngủ như hàng đêm, mà cũng nao nức cùng với ánh đèn dầu lạc của dân chài.

Từ Lộ vừa qua cầu. Phía bên kia đã thấy bóng một ngọn đèn lồng nhỏ đang di động về hướng chàng. Dù ngọn đèn này lẫn trong muôn vạn đèn khác trong hội hoa đăng nhưng từ trong tim, Từ Lộ đã cảm thấy ngọn đèn đó là của chàng, đến với chàng. Không ghìm được, Từ Lộ chạy nhanh về phía chiếc đèn nhỏ. Càng gần, bóng đèn càng hiện rõ hai chữ Tiêu tương tuyệt đẹp được viết bằng nét bút tài hoa.

Chỉ riêng chàng biết căn nguyên hai chữ tiêu tương đó. Vì yêu tiếng sáo của chàng, Nhuệ Anh đã thuê người lên núi Yên Tử tìm khóm trúc tiêu tương, chọn một đoạn đẹp nhất mang về làm chiếc sáo tặng cho chàng. Cây sáo này chàng luôn đeo bên người, nâng niu còn hơn báu vật.

Treo chiếc đèn Mỹ nhân vào thành cầu, Từ dừng lại và rút sáo ra thổi. Lại như mọi lần gặp nhau, tiếng sáo réo rắt điệu phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như. Làn gió xuân mơn man trong khí xuân buốt lạnh, tiếng sáo như gọi những sợi mưa bụi từ trên trời xuống khẽ hôn vào đôi má trinh nữ nóng bừng của Nhuệ Anh. Nhuệ Anh rảo gót hài thêu về hướng đèn lồng Mỹ nhân, bỏ xa người đầy tớ gái đang vừa đi vừa chạy. Nàng nhận ra dung nhan của mình đang được chiếu rọi dưới ánh đèn và trong lòng tràn ngập hân hoan. Dù cuộc hôn nhân sắp tới là do cha mẹ đôi bên sắp đặt nhưng Nhuệ Anh thật mãn nguyện.

Đèn lồng giơ cao soi tỏ hai gương mặt. Tiếng sáo ngừng bặt. Khúc phượng cầu hoàng buông lơi. Cây đèn Mỹ nhân ghé gần búi tóc của Nhuệ Anh. Gương mặt mỹ nhân trên đèn lồng và gương mặt của Nhuệ Anh ngoài đời toả sáng vào nhau. Đôi mắt Nhuệ Anh đăm đắm nhìn. Cách nàng một bước chân, phía đối diện, cây đèn Tiêu tương soi tỏ gương mặt người nàng yêu. Mày rậm mắt sáng miệng như vành trăng treo. Vầng trán thanh cao, chỉ hiềm

bên thái dương có chút khuyết hãm. Cha nàng đã có lần nói về cái tướng phúc phận không trọn vẹn của vành thái dương này. Nhưng ông cũng lại nói Từ Lộ đẹp ở tướng “ngưỡng nguyệt khẩu”. Vả lại tướng tuỳ tâm sinh tướng tuỳ tâm diệt. Nhuệ Anh không hiểu gì tướng số. Nàng chỉ biết ngày đêm mơ tưởng đến khuôn mặt người yêu cùng tiếng sáo mê hoặc của chàng. Và nàng biết tiếng sáo ấy ánh mắt ấy chỉ dành cho nàng mà thôi. Nghĩ đến ngày cưới của mình đã được đôi bên cha mẹ ấn định vào tháng mười cuối năm nay lòng Nhuệ Anh rạo rực. Nàng vừa sợ vừa mong. Nàng sợ cái ngày phải rời nhà cha mẹ, nơi nàng được nâng niu quấn trong nhung lụa, về một gia đình nàng chưa bao giờ đặt chân vào mặc dù cũng chỉ ở đất Yên Lãng này và cách nhà nàng chưa đến một dặm.

Từ Lộ bước tới. Trong lòng chàng trai đê mê dịu ngọt. Đặt cây đèn lồng xuống đất, chàng rụt rè tìm bàn tay nhỏ nhắn của Nhuệ Anh được giấu kín trong tay áo bông chần bằng lụa hồng. Đắm đuối nhìn vào mắt nhau. Đêm hoa đăng rạng rỡ của kinh thành giờ đây dường như thu cả vào trong mắt của cặp trai tài gái sắc. Thiên hạ biến mất. Chỉ còn đong đưa trên cầu Tây Dương đôi đèn lồng Mỹ nhân – Tiêu tương và cặp tài tử giai nhân.

Bỗng vang tiếng ngựa hí chói óc kề sát trên đầu. Đôi trai gái giật mình ngẩng trông lên. Ngay trên đầu là hai cặp móng sắt sáng loáng của bốn chân ngựa vừa bị ghìm lại bất chợt, đang hung hãn chỉ chực xuống vó giẫm nát chàng trai. Đôi hàm ngựa ô lực lưỡng tức giận sùi bọt không ngừng cất tiếng hí rợn người. Từ Lộ vội vã kéo người yêu nép vào thành cầu. Cây đèn Mỹ nhân bị cặp móng ngựa dập xuống vỡ tan tành trong nháy mắt. Phía sau hai đầu ngựa vang lên một tràng cười .

Từ Lộ gịân điên người quắc mắt nhìn lên. Ngất ngưởng trên xe, sau lưng gã đánh xe lực lưỡng vận áo đỏ là một công tử mặt trắng tai vểnh, hàng ria non đứt đoạn trên mép, mặc áo cừu đỏ tía, đi hài mũi cong thêu đôi chim phượng. Trước thành xe có chiếc biển được chiếu rọi bởi ngọn đèn toả sáng từ bên trong mang ba chữ lớn “Diên Thành Hầu “.

Từ Lộ không lạ gì người ngồi trên xe. Đó chính là công tử Lý Câu- cậu quý tử độc nhất của Diên Thành hầu hoàng thân. Lý Câu vốn ỷ thế cha, không việc gì là không dám làm, vung tiền của như hắt nước qua cửa sổ, ăn chơi bợm bãi khét tiếng khắp kinh thành.

Trong đầu Từ Lộ loé lên một tia chớp. Cách đây một năm, Từ Vinh cha chàng làm một việc mà sau đó người kinh thành gọi ông là kẻ vuốt râu hùm.

Nhà Diên Thành hầu đã nức tiếng giầu có ở kinh thành. Nhưng lòng người tham không đáy. Mùa xuân năm ngoái, ông đã cho quan hầu đày tớ chăng dây cướp trắng hơn hai trăm mẫu ruộng của dân phía bắc hồ Dâm Đàm. Trong số đó có ruộng đất của nhiều nhà chùa mới khai phá. Dân mất ruộng kéo nhau lên huyện, phủ…đưa đơn kiện. Nhưng Diên Thành hầu quyền thế nghiêng trời. Đám dân đen không những ra về tay trắng mà trên lưng còn lằn vết đòn roi vì tội mưu toan lấn chiếm, ruộng đất của triều đình đã ân ban cho hoàng thân quốc thích. Là quan Tăng đô án của triều đình, cha Từ Lộ đã đến từng chùa chiền, làng xóm trong vùng để thu thập chứng cứ. Những lá đơn của ông vẫn nối nhau gửi đến Đô hộ phủ ngục tụng để mong có ngày rõ được trắng đen. Diên Thành hầu đâu có dễ bỏ qua cho kẻ dám vuốt râu hùm. Mối

hiềm thù càng như dầu đổ vào lửa, khi nhan sắc Nhuệ Anh đã tình cờ lọt vào mắt công tử Lý Câu trong một lần đi lễ chùa. Từ đó Lý Câu như bị thiêu đốt. Trái với thói quen bợm bãi của những cuộc trăng gió rải rác khắp kẻ chợ cùng quê, lần này Lý Câu vật vã hối thúc cha mẹ đến hỏi Nhuệ Anh về làm vợ. Lời cầu hôn của cậu quí tử con nhà quyền thế bậc nhất kinh thành đã bị khước từ….

Tràng cười khả ố của Lý Câu vụt tắt khi nhìn thấy ánh mắt bừng bừng nộ khí của Từ Lộ đang quắc lên nhìn thẳng vào hắn. Bàn tay Từ Lộ nắm chặt lấy cây sáo trúc vung lên. Ánh mắt giận dữ và chùm tua đỏ buộc trên đuôi sáo trúc khiến cặp ngựa ô đột nhiên hoảng hốt. Lại đúng lúc gã đánh xe ngẩn ngơ ngắm vẻ đẹp khác đời của Nhuệ Anh mà lơi lỏng tay cương. Đôi ngựa dựng ngược bờm, tung vó hí lên một hồi dài và hất công tử Lý Câu ngã sóng soài trên cầu Tây Dương. Chiếc áo cừu màu đỏ bảnh bao bết đất.

Nhuệ Anh quên cả giữ ý bật cười khanh khách. Lý Câu vừa đau vừa bẽ mặt, không biết trút nỗi nhục vào đâu, liền vung roi da quật túi bụi lên lưng, lên mặt người đánh xe. Lưng áo người đánh xe rách toạc, máu chảy ròng ròng từ trên mặt xuống cổ ướt đẫm mà vẫn phải nén đau không dám ta thán một lời, quì xuống khom lưng cho Lý Câu giẫm lên vai mà bước vào xe. Trước khi ra roi cho ngựa phi, Lý Câu còn quay lại, gầm lên với Từ Lộ :

– Thằng tiểu đô án hèn mọn kia! Hãy nhớ lấy đêm Nguyên tiêu này. Nếu mày muốn giữ lấy cái mạng sống hèn mọn thì hãy lập tức rời xa tiểu thư. Nàng là của ta. Quên điều đó thì chớ trách cha con ta xử ác !

Và hắn ngoái sang, đánh mắt, cố nở một nụ cười tươi tỉnh với Nhuệ Anh :

– Xin nàng đừng quên. Tết Thanh minh sắp tới, nàng sẽ nằm trên giường cưới của ta !

Cỗ xe ngựa phóng vụt đi dưới sức nặng của chiếc roi da.

Từ Lộ nhìn chiếc đèn lồng Mỹ nhân với bao nhiêu công phu và tấm tình nâng niu gửi gắm của chàng bây giờ tả tơi dưới vó ngựa. Chàng giận bầm gan tím ruột, nộ khí xung thiên đuổi theo bóng ngựa.

Vừa chạy được mấy bước thì nghe tiếng chân người thình thịch phía sau và tiếng gọi giật hốt hoảng :

– Thưa công tử! Công tử! …Mời cậu mau mau về nhà. Có sự biến….

Từ Lộ khựng lại. Nhìn nét mặt hớt hải của tên gia nhân, chàng chợt nhớ hôm nay cha về muộn.

Từ Lộ cúi đầu bái biệt Nhuệ Anh. Nàng cũng đang tái mặt vì lo lắng, hỏi dồn tên gia nhân:

– Có việc gì vậy? Sao không mau mau nói ra?

Nhìn nét mặt tái nhợt của tên gia nhân, Từ Lộ linh cảm thấy một điều gì khủng khiếp đã xẩy ra. Ngực chàng thắt lại. Chàng ngắt lời tên gia nhân đang mắt tròn mắt dẹt định kể lể, quay sang an ủi Nhuệ Anh:

– Xin nàng đừng bận tâm. Ta về nhà xem có sự gì rồi sẽ nhanh chóng tin lại cho nàng ngay…Hãy tha thứ cho ta đêm nay, tài hèn sức mọm không kịp cấm cản kẻ vô hạnh . Xin nàng hãy để ngoài tai những lời sằng bậy của kẻ đó. Dù thế nào đi nữa, Từ Lộ này chỉ mong nàng hiểu cho rằng, nàng là nhụy hoa, mà ta là chiếc đài hoa, suốt kiếp này ta sống chỉ để nâng niu cho cánh hoa được vươn nở dưới ánh mặt trời…

Từ Lộ cùng tên gia nhân tiễn Nhuệ Anh và người tớ gái qua bên kia cầu, đến cổng nhà nàng rồi quay người rảo bước. Nước mắt lưng tròng, Nhuệ Anh cùng người tớ gái lặng đứng trông theo với chiếc đèn lồng Tiêu tương đang lẻ loi hắt sáng.

Đêm hội đèn Quảng Chiếu vẫn toả ánh sáng huy hoàng. Văng vẳng lúc gần lúc xa tiếng ai hát như giễu cợt :

…… Ngưỡng u nhược nhi lưu phán

Phủ quế chi dĩ ngưng vọng

Tương tri linh hề thử ngộ

Thuyên hà vi hề độc vãn (*)…….

x

x x

Vừa đặt chân đến trước cổng, Từ Lộ đã nghe tiếng than khóc vẳng ra từ trong nhà. Đám tớ trai tớ gái nhốn nháo đi lại. Mười sáu chiếc đèn lồng đã bị thổi tắt từ khi nào, chỉ còn một chiếc lớn nhất ở giữa nhà soi gương mặt đau khổ như ngây dại, chứa chan nước mắt của mẹ chàng. Bà tựa lưng vào người hầu gái. Chị người hầu lớn tuổi đang vuốt ngực cho bà, cố sức khuyên giải bằng cái giọng khàn khàn cũng ướt đẫm nước mắt.

Trước mặt bà, một trong bốn tên lính hầu đã đi theo cha chàng sáng nay đang quì sụp. Aó quần tả tơi, một vệt máu chảy từ trán xuống cẳm đã khô bết lại thành một vệt đen sẫm như nhát chém chia khuôn mặt anh ta ra thành hai nửa . Tên lính không ngớt đập đầu xuống đất :

– Xin phu nhân cứ trừng phạt con cho đỡ đau lòng…

Từ Lộ vội chạy vào nhà, nắm lấy vai tên lính mà lắc, hỏi dồn ;

– Có việc gì vậy….Cha ta đâu ?

Mẹ chàng từ nãy giờ đã kiệt sức, bây giờ bỗng oà lên nức nở :

– Từ Lộ…con. Mau đi tìm cha.. Mẹ chết mất…!

Từ Lộ nhìn khắp nhà. Cái không khí rạng rỡ ban tối của đêm hội hoa đăng biến đâu mất. Trong nhà chỉ còn trĩu nặng mùi trầm đang toả ra từ chiếc lư bạc. Gió lạnh rú từng hồi ngoài kia, lay lay những ngọn khoái trầm như bàn tay ai đang khắc khoải vẫy gọi…

Như trong cơn mê, chàng nghe những lời kể dài dòng tiếng nọ lấp tiếng kia của tên lính hầu. Nhưng chàng cũng đủ hiểu là Từ Vinh cha chàng và bốn tên lính hầu cận vào kinh, khi về đến gần Trúc Sơn bỗng bị một toán người bịt mặt cầm gươm đao xông ra chặn đường. Bốn người lính chưa kịp trở tay thì ba người đã bị chém gục. Cha chàng ra sức chống trả. Thường nhật, vũ dũng của quan Tăng đô án đã vào hàng cao thủ. Trong kinh thành không mấy kẻ địch nổi. Nhưng lần này, chỉ sau mấy hiệp đấu, Từ Vinh đã thét lên một tiếng tay ôm trán lăn lộn trên mặt đất. Hai con ngươi lòi khỏi tròng rồi tắt thở. Người lính hầu còn lại cố sức lao vào cứu chủ thì bị thêm một nhát chém vào mặt. Khi tỉnh dậy không thấy thi thể quan Đô án và ba tên lính hầu đâu nữa.

Từ Lộ dặn người nhà cố chăm sóc an ủi mẹ chàng cho chu đáo, rồi lập tức sai thắng ngựa. Chàng cùng tên bảy tên gia nhân tốc lực phóng đến Trúc Sơn. Đám người xem hội hoa đăng vẫn trùng trùng trẩy về phía kinh thành. Bây giờ, những ánh đèn rực rỡ, quần áo lộng lẫy và tiếng cười nói như những mũi dao thọc vào trái tim đau đớn của chàng.

Đến chân núi Trúc, Từ sai gia nhân đốt đuốc. Bảy bó đuốc thắp lên rực sáng, soi tỏ cả từng bụi cây rậm. Chàng và đám gia nhân quần nát cả một vùng, vạch từng gốc cây từng ngọn cỏ để tìm cha. Tìm đến lúc trời gần sáng vẫn không thấy thi thể của Từ Vinh và ba tên lính hầu.

Loang lổ trên mặt đất những vũng máu đã khô cứng. Tiếng những con chim lợn ăn đêm đến hồi về tổ cất lên từng hồi não nuột. Tiếng chuông chùa Phổ Am vẫn thong thả ngân vang báo đã qua giờ sửu sang giờ dần. Trời rạng sáng. Từ Lộ cùng đám gia nhân mệt nhoài bơ phờ trở về. Nước mắt đã khô hoen trên má chàng trai.

Đứng trước bàn thờ, Từ Lộ đốt ba nén hương. Chàng quì xuống dập đầu khấn cha, những tiếng khô khốc bật ra từ cổ họng :

– Lạy cha…Hồn cha có thiêng xin ứng nghiệm. Xin cha hiển linh chỉ cho con trai cha biết mặt biết tên kẻ lòng lang dạ sói. Con xin nguyện bỏ hết đèn sách công danh sự nghiệp, nếm mật nằm gai để trả thù này….

Một cơn gió lạ lạnh buốt thổi thốc vào nhà. Từ Lộ sởn da gà. Ba nén hương vừa thắp bỗng bùng cháy như ba cây đuốc nhỏ. Chiếc lư trầm cổ kính thoắt đen xám lại như một lời nguyền.

Mọi người trong nhà rởn tóc gáy.

Trời sáng hẳn. Những tia nắng đầu tiên của một ngày xuyên qua ánh vàng vọt của những cây đèn lồng cuối cùng còn lại trong kinh thành. Từ Lộ đứng lên. Mẹ chàng nhợt nhạt nằm thở thoi thóp trên giường. Người thầy thuốc giỏi nhất kinh thành đã được mời đến. Ông ta đang vén tay áo, bắt mạch cho mẹ chàng bằng những ngón tay dài xương xẩu. Giọng người thày thuốc luận bệnh nghe đều đều buồn nản bên tai Từ Lộ :

– Bệnh của phu nhân do uất khí mà thành. Uất khí ở tâm nghịch lên não khiến tâm thần hôn mê. Bệnh này không nặng mà cũng không nhẹ. Cần uống mươi thang phát tán uất khí để thăm dò. Rồi sau đó tuỳ tình thế mà tìm thuốc trị tiếp. May ra mới khỏi được….Tôi không dám đoan chắc có cứu được hay không. Cũng còn là tuỳ vận số của phu nhân….

Từ Lộ nán lại bên giường mẹ, ngắm nhìn mãi gương mặt trắng bệch như sáp của bà. Chàng đau xót nhớ lại, chỉ mới đêm qua mẹ còn tươi đẹp, đường bệ đi lại trong nhà, tự tay sửa soạn bàn thờ, đốt những ngọn đèn lồng cho gia nhân treo lên, đợi cha chàng về mở lễ Nguyên tiêu. Vậy mà giờ đây….

Tai hoạ đã đổ ập xuống làm tan tác cả một nhà đang ngập tràn hạnh phúc. Tăng quan đô án Từ Vinh là quan triều đình cai quản hàng nghìn tăng ni, nổi tiếng là người chính trực. Cả đời chỉ vì điều thiện. Kẻ nào đã sát hại cha chàng ?

Nhớ lại lời kể của tên lính hầu sống sót và nhìn những vũng máu đọng trên đất, ruột gan Từ Lộ như bị một thuốn sắt nung đỏ xuyên qua. Chàng bật dậy, nhẩy lên mình ngựa điên dại phóng khắp kinh thành trong nỗi vô vọng tìm cha.

Đã qua hai ngày.

Người ngựa, gia nhân nhà Từ Lộ đều mệt lả. Triều đình cũng đã cử quan quân đi tra xét tìm kiếm khắp nơi. Tăm tích vụ sát hại Tăng đô án Từ Vinh vẫn mù mịt. Khắp kinh thành xôn xao bàn tán về vụ kỳ án. Người ta nói chỉ có bàn tay của quỉ sứ thì mới có thể giết người một cách tàn bạo mà lại thần bí như vậy. Từ Lộ và các quan quân đã thuê dân chài buông lưới khắp các sông hồ để tìm xác Từ Vinh. Vẫn không thấy. Từ Lộ lại bắt đầu nhen nhóm hy vọng cha chàng còn sống. Người có việc gì, ở đâu đó và nay mai lại sẽ trở về với mẹ con chàng….

Tảng sáng ngày thứ ba, Từ thiếp đi sau hai ngày đêm mệt lả vì tìm kiếm. Bỗng mơ màng thấy cha. Khuôn mặt đẫm máu, đôi tròng mắt lồi ra khỏi hốc. Vẻ đau đớn khôn cùng. Từ vùng dậy gọi “Cha !”

Gương mặt chợp chờn như gần như xa rồi biến đi sau lối cửa chính.

Từ bàng hoàng tỉnh dậy, chạy theo. Chợt nghe tiếng chân thậm thịch ngoài đường cái. Tiếng người xôn xao gọi nhau đổ về phía bờ sông Tô. Không hiểu sao, đôi chân đưa Từ như lướt qua dòng người đang chạy.

Tới nơi, Từ đã thấy người kín đặc hai bên bờ. Giữa dòng sông Tô, xác một ai đó nổi lên từ lúc nào, nằm sấp, đang từ từ trôi ngược dòng về phía cầu Quyết.

Năm chiếc thuyền chài, mỗi chiếc có ba tên tên lính đang gắng sức chèo thuyền lại gần, quăng câu liêm, vàng lưới để vớt xác lên. Nhưng mỗi khi có thuyền đến gần thì xác người lại dướn bứt hẳn, lao vùn vụt lên phía trước. Cả những chiếc thuyền và đoàn người chạy dọc hai bên bờ sông Tô chỉ còn cách hớt hải chạy theo đường trôi của xác người. Mặt ai nấy đều lộ vẻ kinh hoàng, nhưng vẫn chạy theo như có một sức hút vô hình đang cuốn đi. Từ cũng vậy. Chàng chạy chân đất băng băng theo cái thây trôi ngược. Chân dẫm gai vướng mảnh sành tướp máu cũng không hay.

Vượt qua một khúc quanh, thây người và những kẻ vớt xác đã đến chân cầu Quyết. Từ dưới sông đã nhìn thấy ngôi lầu nguy nga của nhà quan Diên Thành hầu in bóng xuống mặt sông. Như có một sức mạnh phi thường đẩy từ bên dưới, thây người vụt rướn ngược lên, gấp gáp. Khi vừa chạm vào bóng toà lầu của Diên Thành Hầu đang soi xuống nước, xác người bỗng dựng đứng dậy.

Búi tóc dài xoã tung bết nước quấn quanh hình hài một người đàn ông đẫy đà trong bộ quan phục sũng nước. “Tăng đô án Từ Vinh…!”. Dòng người ken kín hai bên bờ sông Tô cùng sửng sốt kêu thất thanh.

Từ Lộ bủn rủn chân tay. Chàng đổ sụp xuống. Rồi cố bíu vào vai mấy người đứng quanh để nhoài ra nhìn cho rõ. Thây người vừa dựng đứng dậy trên sông chính là Tăng Đô án Từ Vinh! Cha chàng.

Đôi tròng gần như bật ra khỏi hốc mắt. Từ trong hai hốc mắt sâu hoắm những giọt máu tươi ứa ra chảy loang trên mặt chan đỏ nước sông Tô. Và cái xác của Tăng đô án Từ Vinh không trôi nữa, sừng sững đứng thẳng trên mặt nước, cánh tay cứng đờ giơ cao trực chỉ đúng cổng nhà Diên Thành hầu.

Đám đông hai bên bờ sông Tô đồng loạt rú lên kinh hoảng khiến đàn cò trắng vốn thường ngày đậu trĩu nặng trên rặng tre bên sông hốt hoảng vụt bay, để rớt xuống mặt sông những tiếng kêu xáo xác như tiếng hú khóc. Đang giữa trưa mà gà trong sân các nhà bên sông táo tác gáy. Chó trong vùng thảng thốt tru lên từng hồi dài không dứt.

Trong nhà Diên Thành hầu đang như ong vỡ tổ. Tên gia nhân vừa mở cổng, nhìn thấy thây người dựng đứng ngay trước mặt, tay chỉ thẳng vào nhà thì ngã quị xuống. Gắng gượng mãi nó mới lết vào được bên trong để cấp báo.

Diên Thành hầu đang ngồi uống rượu với pháp sư Đại Điên trên lầu cao. Chung quanh mâm là mấy cô nàng hầu nỉ non đàn hát.

Nghe tin cấp báo, Diên Thành hầu quát :

– Loạn ngôn !

Rồi gạt cô hầu non kề bên, Hầu xốc áo bước ra cửa lầu nhìn xuống.

Lập tức Diên Thành hầu nhìn thấy thây người dựng đứng trên mặt sông dưới cửa lầu. Thây người đó đang ngước khuôn mặt đầm máu và hai hốc mắt sâu hoắm trừng trừng, chỉ thẳng tay vào mặt ông ta. Buông chén rượu trong tay, thét lên một tiếng khiếp hoảng, Diên Thành hầu lùi lại ngã ngồi xuống bậc thềm. Pháp sư Đại Điên vẫn thản nhiên gà gật bên mâm. Một cô người hầu chuốc rượu. Cô khác dùng đũa ngọc gắp từng miếng yến sào cua biển đưa tận miệng pháp sư.

Pháp sư khoảng trên năm mươi tuổi, vóc người mập mạp, dưới hai vành lông mày rậm rạp, đôi mắt nửa khép nửa mở. Khi khép như mắt mèo ngái ngủ. Khi mở thì trừng trừng dữ dội như mắt cọp đói. Tròng con ngươi thoáng ánh đỏ. Cái nhìn của pháp sư bao giờ cũng ngước lên cao. Lủng lẳng trước ngực áo choàng rộng màu già là một vỏ qủa bầu khô đựng rượu vẽ hình bát quái. Cây thiền trượng tạc hình con mãng xà hai đầu há miệng đỏ lòm trên đoạn tay cầm.

Diên Thành hầu gạt cô hầu non, bò lết vào. Đại Điên mở mắt. Chỉ thấy Diên thành hầu líu lưỡi, tay cuống cuồng chỉ ra phía giữa sông :

– Pháp sư…Nó …Nó….

– Hả ?

– Nó …Nó…!

Đại Điên đủng đỉnh đứng dậy bước ra.

Trên sông Tô, đám gia nhân nhà Diên thành hầu đã lấy lại phần nào hồn vía, đang dùng gậy dùng sào hoặc câu liêm đứng ở bên bờ cố sức đẩy cho thây người đổ xuống. Nhưng thây Từ Vinh vẫn đứng trơ trơ. Chung quanh thây người và cả một đoạn sông Tô, oán khí ngùn ngụt bốc lên thành một đám mây đen đặc vần vụ che mờ cả mặt trời. Và gương mặt đẫm máu của thây người càng nổi bật, càng lúc càng tưởng như sáp gần lại với mỗi mặt người đứng trên bờ.

Từ trên lầu, Đại Điên nhìn thấy tất cả. Không một thớ thịt chuyển động trên mặt pháp sư.

Càng lúc, Diên Thành hầu càng cảm thấy gương mặt đẫm máu của Từ Vinh với đôi môi mím chặt và tròng mắt lồi ra càng như sắp chạm vào mặt ông ta. Sóng sông Tô dồi lên hung bạo. Và cái thây của Từ Vinh càng lúc càng chuyển động như muốn áp lên tận mặt Diên Thành hầu. Ruột gan Diên Thành hầu tưởng như tuột xuống chân. Ông chới với về phía Đại Điên lắp bắp :

Pháp sư…! Chẳng lẽ…pháp thuật của ngài…

Đại Điên nhìn xuống Diên Thành hầu bằng cặp mắt mèo ngủ, khinh miệt :

– Ta xong việc đã ba ngày.. Còn bây giờ là chuyện của hầu.. Nghiệt dĩ..! Nghiệt dĩ…!

Diên Thành hầu ôm đầu rên rỉ :

– Vàng ròng sư phụ đã nhận. Không phải chỉ để lấy hồn. Phải lấy cả xác hắn…!

Giọng pháp sư Đại Điên vẫn rè rè như giọng cô hồn :

– Pháp thuật chỉ diệt được nhân thân chứ không diệt được nghiệp dĩ !

Diên Thành hầu quì sụp, mấy ngón tay quặp vào gấu áo màu già cáu bẩn của Đại Điên :

– Sư phụ…Xin gia ân…Kẻ này làm sao sống được trước cái thây dựng ngược kia…!

Lúc đó Đại Điên mới đủng đỉnh quài tay với cây thiền trượng dựng phía sau, tay kia nâng qủa bầu âm dương dốc ngược lên. Trong khi cây thiền trượng trong tay Đại Điên phóng vụt vào ngực cái thây đứng trên sông, miệng pháp sư lầm rầm niệm chú. Cặp mắt cọp đói ngước lên nhìn trời.

Bỗng từ miệng quả bầu âm dương, một luồng khí hôi thối luồn ra xanh lẹt như một chùm rắn lục bao phủ lấy vầng oán khí màu đen đang vần vũ trên sông. Một tiếng sét vụt nổ giữa trời khiến Diên Thành hầu giật mình, hai tay bịt chặt tai.

Khi Diên Thành hầu mở mắt ra thì đám hắc khí đã tan biến. Thây của Từ Vinh lảo đảo, và cây thiền trượng đã trở lại trong tay Đại Điên, để lại trên ngực Từ Vinh một lỗ sâu bầm máu. Nhưng cái thây chỉ lảo đảo chứ không chịu đổ hẳn, không chịu trôi đi. Cặp mắt lồi của thây Từ Vinh càng hoăm hoắm xoáy vào Diên Thành hầu và Đại Điên.

Đám người đứng hai bên bờ sông Tô rú lên.

Từ lúc nhìn rõ mặt cha, Từ Lộ như không còn tri giác. Chàng đứng trân trân nhìn xác cha sừng sững giữa dòng mà chỉ tay vào nhà Diên Thành hầu. Chàng nhìn thấy Diên Thành hầu, pháp sư Đại Điên, lập tức hiểu ra nguyên do cái chết tức tưởi của cha.

Khi cây thiền trượng trong tay Đại Điên phóng thẳng vào ngực cha, Từ Lộ sực tỉnh. Chàng thét lên một tiếng khủng khiếp và lao xuống sông. Nhưng sự căng thẳng trong ba ngày qua khiến Từ Lộ bất tỉnh ngay khi vừa chạm mặt sông Tô. Khi đó, cái thây của Từ Vinh chợt hơi xoay nghiêng, hướng về phía con trai ông. Nhưng tức khắc, mấy ngón tay dữ dội ấy lại xoay ngang trực chỉ vào nhà Diên Thành hầu.

Đám quân lính trên thuyền chài mau mắn kéo được Từ Lộ lên bờ. Mọi người xáo xác tìm kiếm chung quanh. Cuối cùng mới lôi đến một thằng bé tám, chín tuổi. Một người nhanh tay kéo tụt cái khố trật khỏi mông thằng bé. Thằng bé giây giụa, khóc thét. Mặc. Ba bốn bàn tay thay nhau phát mạnh vào cái mông bé nhỏ. Thằng bé ưỡn người. Dòng nước đái trẻ con vọt ra xói thẳng vào miệng Từ Lộ đang nằm bằn bặt dưới đất vừa được những bàn tay khác hè nhau cạy mở….. Từ Lộ dần dần mở mắt.

Và cái điều mà Từ Lộ nhìn thấy đầu tiên là hai hốc mắt sâu thẳm của cha mình. Hai hốc mắt đó đang hướng về phía chàng. Và khi nhận được nhỡn quang của Từ lộ, hai hốc mắt đó chợt có ánh sáng loé như ánh chớp.

Từ Lộ lẩy bẩy trỗi dậy trên đám bùn lướt mướt những đám cỏ gai cỏ chỉ và nước tiểu trẻ con. Chàng chắp hai tay vái về phía thây cha, vái trời, vái đất. Những âm thanh phát ra từ cổ họng Từ, rít chặt lại :

– Lạy cha..! Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống để trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám…!

Từ khấn ba lần. Đến lần khấn thứ ba, trên mặt sông, thây Từ Vinh khẽ rung động. Và bất chợt cái thây dựng lên một lần cuối cùng, mặt chạm mặt Diên Thành hầu trên lầu, rồi từ từ đổ, nằm xuống mặt sông. Đôi con ngươi trở lại nằm trong hốc mắt. Mắt khép.

Và Từ Vinh trôi ngược trở lại, xuôi dòng nước.

(còn tiếp)

VTH

(Nguồn VNTQ)

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder