Hai ngày và mãi mãi – cuộc thử sức của nhà văn Cao Năm trên “sân chơi” tiểu thuyết lịch sử – Bùi Hải Yến

Ngoài nhân vật có thật – Nguyễn Ái Quốc – đóng vai trò linh hồn của tác phẩm, còn có rất nhiều trong số gần 40 nhân vật trong “Hai ngày và mãi mãi” là những nhân vật được sử sách ghi lại (ông Mai, Vũ Quốc Uy, Trần Thành Ngọ, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Thị Ngọc Mùi…) nhưng sống động vô cùng qua những phác họa của nhà văn về chân dung, tính cách, suy nghĩ và hành động

Không phải là thể loại văn học mới ra đời nhưng vài thập niên trở lại đây tiểu thuyết lịch sử bỗng thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà văn, cùng với đó là cả giới nghiên cứu, phê bình. Nhiều tác giả đã “mạnh dạn” thử sức mình với thể loại tiểu thuyết độc đáo này, và không ít người đã tạo được những thành công để đời với nó, trong số đó phải kể đến Võ Thị Hảo, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân…Nói “mạnh dạn” là bởi không phải tiểu thuyết gia nào cũng có thể viết được và viết hay về tiểu thuyết lịch sử, vì ngoài niềm đam mê với lịch sử họ còn phải trang bị cho mình một lượng kiến thức khổng lồ từ kho kí ức dân tộc kèm theo đó là một vốn sống phong phú. Không những thế, việc điều tiết một cách hợp lý giữa yếu tố sự thật (việc đã diễn ra trong quá khứ) và yếu tố hư cấu (đặc quyền của tác phẩm văn chương) để tạo ra sức hấp dẫn của tác phẩm cũng là một thách thức không nhỏ. Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, bằng việc cho ra đời cuốn tiểu thuyết lịch sử hiện đại “Hai ngày và mãi mãi”, Cao Năm là một nhà văn “mạnh dạn”, dám nghĩ, dám viết.

“Hai ngày và mãi mãi” là tiểu thuyết thứ hai của Cao Năm, sau “Bão đồng” (xuất bản năm 2008 –NXB QĐND) và sau hàng trăm truyện ngắn, bút ký ra mắt độc giả trước đó. Tuy đã có một lưng vốn kha khá với ngần ấy tác phẩm sau gần 50 năm cầm bút (kể từ truyện ngắn đầu tiên đăng báo Văn nghệ năm 1966), chúng ta vẫn phải thán phục sức sáng tạo và tinh thần chấp nhận thử thách của cây bút lão thành này. Trước hết là ở cách đặt vấn đề, phạm vi đề tài mà tác giả lựa chọn phản ánh, kế đến là việc xử lý chất liệu lịch sử trong tương quan với tính hư cấu tiểu thuyết.

Lựa chọn đối tượng miêu tả, tái hiện là Hồ Chủ tịch đáng kính, lại chọn mốc thời gian là hai ngày Bác lưu lại Hải Phòng (20-21/10/1946), sau khi trở về từ chuyến công du nước Pháp, tác giả Cao Năm có được lợi thế của một người viết sống lâu năm, am tường phong thổ và tính cách người Hải Phòng, từ đó tái hiện một cách chính xác và sâu sắc không khí háo hức chuẩn bị đón Bác Hồ cùng tình cảm của người dân thành phố Cảng với lãnh tụ. Hơn nữa, dẫu đã có nhiều công trình, bài viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác nhưng quãng thời gian hai ngày ngắn ngủi này của Người lại chưa được sử sách hay văn chương ghi lại một cách thấu đáo, điều này hứa hẹn những đóng góp mới mẻ của Cao Năm nếu nhà văn giải quyết tốt vấn đề đưa ra. Nhưng viết về Bác – một chân lý lịch sử – hiển nhiên chưa bao giờ là dễ dàng với một nhà văn, đặc biệt là một nhà tiểu thuyết. Viết thế nào cho đúng khi các tư liệu về bác đã đầy rẫy trên các trang sách của các nhà sử học, kinh tế chính trị, xã hội học, dân tộc học trong và ngoài nước mà nếu cần, lúc nào ta cũng có thể kiểm chứng chỉ bằng một cú “nhấp chuột” trên Google? Viết làm sao để vấn đề nêu ra thật mới lạ, hấp dẫn độc giả khi mà nhân vật trung tâm kia đã trở nên quá đỗi quen thuộc, gần gũi với lớp lớp người dân đất Việt từ những bài học vỡ lòng? Tất cả những yêu cầu ấy đã được tác giả Cao Năm giải quyết, và giải quyết thành công ở một chừng mực nhất định.

Ta biết rằng tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang đặc trưng của tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Tác giả dựa vào những sự kiện trong quá khứ, hư cấu tưởng tượng thêm để tạo nên tác phẩm nhằm gây hứng thú cho người đọc. Trong thể loại văn học này, lịch sử trở thành nguồn cảm hứng cho tự do sáng tác văn chương. Tuy vậy, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm không nằm ở chân lý lịch sử mà nằm ở chân lý nghệ thuật và chân lý nghệ thuật lại chịu sự ràng buộc của chân lý lịch sử. Giải quyết không thấu đáo mối quan hệ giữa hai yếu tố “hư cấu” và “sự thật” có thể làm “nghèo” đi tính nghệ thuật của tác phẩm hoặc độ chân xác của những dữ kiện lịch sử. Về yêu cầu này, tác giả của “Hai ngày và mãi mãi” tỏ ra khá “chắc tay”.

Ngoài nhân vật có thật – Nguyễn Ái Quốc – đóng vai trò linh hồn của tác phẩm, còn có rất nhiều trong số gần 40 nhân vật trong “Hai ngày và mãi mãi” là những nhân vật được sử sách ghi lại (ông Mai, Vũ Quốc Uy, Trần Thành Ngọ, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Thị Ngọc Mùi…) nhưng sống động vô cùng qua những phác họa của nhà văn về chân dung, tính cách, suy nghĩ và hành động. Gắn kết được ngần ấy con người, ngần ấy tính cách, dù quen biết hay xa lạ với nhau trong một mối liên kết thiêng liêng của thứ tình cảm chân thành, sâu sắc đối với Hồ Chủ tịch là một dụng công không nhỏ của Cao Năm.

Vận dụng kỹ thuật “truyện lồng trong truyện”, Cao Năm đã dẫn dắt độc giả đi từ câu chuyện này đến câu chuyện khác. Bắt đầu từ niềm vui nho nhỏ lúc đi học về mà cháu Tuấn khoe với ông, đến việc người ông kể cho cháu nghe những ngày người dân Hải Phòng náo nức đón Bác về nước. Trong mạch kể chuyện của ông Tự, với mỗi nhân vật xuất hiện ta lại thấy hiện lên một cuộc đời cần lao hay một ấn tượng sâu sắc, mạnh mẽ nào đó về nhân cách của Hồ Chủ tịch (với những người may mắn được gặp Bác). Đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh hiện lên một cách chân thực, khách quan qua lời kể của những nhân chứng – những người kể chuyện đáng tin cậy, đó là ông Mai – người bạn cùng làm trên tàu “Vận tải hợp nhất” những ngày đầu Bác ra đi tìm đường cứu nước, là Luân – người thủy thủ đã nhiều lần gặp gỡ, trò chuyện với Bác trong thời gian Người ở Pari, là Vũ Quốc Uy – vị lãnh đạo thành phố hai lần được gặp Bác mà mỗi lần đều để lại những ấn tượng tốt đẹp khác nhau…Xâu chuỗi thông tin của nhiều nhân vật, với nhiều cuộc đời, nhiều câu chuyện như vậy trong thời gian được kể chỉ có hai ngày đòi hỏi việc phân chia sự kiện hợp lý và một tư duy logic, khoa học để một mặt đảm bảo tính tuần tự, sáng rõ (các câu chuyện và nhân vật không bị chồng chéo), một mặt vẫn thu hút được sự theo dõi cuả độc giả với mạch kể. Tôi đánh giá đây vừa là thành công, nhưng cũng lại là điểm bộc lộ hạn chế của “Hai ngày và mãi mãi”.

Ghi nhận và trân trọng sự công phu cùng tài năng của nhà văn Cao Năm người viết vẫn thấy vài điểm còn tồn tại đáng tiếc trong “Hai ngày và mãi mãi”, làm hạn chế phần nào giá trị to lớn mà đáng ra tác phẩm xứng đáng đạt được. Đó là sự chằng chịt của nhân vật và sự kiện làm giảm tính hấp dẫn của câu chuyện. Tuy điều này đã được tác giả xử lý khá khéo léo và sáng rõ nhưng rõ ràng việc sa vào miêu tả những nhân vật phụ kiểu chị Vân, cháu Khe hay những đoạn say sưa miêu tả về Trần Thành Ngọ…sẽ làm rối cốt truyện, cản trở tính liên tục trong việc theo dõi tiến trình câu chuyện của độc giả.

Về cơ bản, “Hai ngày và mãi mãi” được kể bởi lối hành văn trong sáng, nhuần nhị, ngôn ngữ đối thoại tự nhiên, nhiều đoạn được viết bằng một giọng văn mượt mà, giàu sắc thái biểu cảm (đoạn miêu tả thiên nhiên ven biển), nhiều đoạn thể hiện được chất triết lý, hàm súc (đoạn miêu tả sự khôn khéo trong đối đáp, tài ngoại giao của Bác với Đác-giăng-li-ơ…). Tuy nhiên, có đôi chỗ việc lặp đi lặp lại từ, ngữ hay câu ở một vài đoạn đã phần nào làm giảm sự mạch lạc, trau chuốt của lời văn (Chẳng hạn, lặp 4 lần câu “Cần luôn luôn nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước” trong chưa đầy 2 trang viết – trang 36-37; lặp 3 lần từ “có lẽ” trong 3 câu văn liền nhau, lặp đi lặp lại chức vụ của Vũ Quốc Uy …).

Dẫu còn vài hạn chế nho nhỏ, tôi vẫn đồng nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu Lưu Văn Khuê – người đồng nghiệp nhiều năm gắn bó với cây bút Cao Năm – khi ông khẳng định rằng: “Hai ngày và mãi mãi là tiểu thuyết đáng đọc”.

 

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder