Heo may gió lộng – Truyện ngắn của Ma Văn Kháng

– Bố ơi, hay là con viết thư cho bác Thảo nhé?
Vợ Đoan từ nãy vẫn nặng nặng, nghe con gái hỏi, liền đập mạnh đôi đũa vào cạnh nồi, đứng phắt dậy quàu quạu:
– Thôi đi! Khách với khứa! Y như bò thấy nhà táng ấy, tôi sợ khách lắm rồi!…

– Bố ơi, hay là con viết thư cho bác Thảo nhé?
Vợ Đoan từ nãy vẫn nặng nặng, nghe con gái hỏi, liền đập mạnh đôi đũa vào cạnh nồi, đứng phắt dậy quàu quạu:
– Thôi đi! Khách với khứa! Y như bò thấy nhà táng ấy, tôi sợ khách lắm rồi!

Một hôm đang giữa bữa, con bé Thuỷ mười hai tuổi của vợ chồng Đoan, bỗng đặt bát xuống mâm, lơ lẻo hai con mặt, thao láo:
– Bố mẹ ạ, hình như bác Thảo bác ấy sắp lên chơi nhà mình hay sao ấy! Đêm qua con ngủ mê, thấy bác ấy gọi cửa. Con chạy ra, mừng quá, reo ầm lên. Nhưng con mời thế nào bác ấy cũng không vào nhà. Cứ đứng ở cửa khóc mếu. Mà mắt thì sưng vù, tím bầm. Còn quần áo thì rách tả tơi trông thương lắm cơ!
Vợ Đoan, mặt đang vui vẻ, nghe con gái nói, bỗng như bị dị ứng, nặng bình bịch. Y gắt:
– Mê với mẩn! Nghe mà phát kinh!
Không nhận ra thái độ khác thường của mẹ. Thuỷ nghênh má, hồn nhiên, tiếp: – Tự dưng con mê thấy thế mà mẹ.
– Ban ngày ban mặt mải đi xem các đám đánh chửi nhau ở phố nên đêm mới mê thế. Chứ gì. Thời buổi gì mà khiếp quá! Anh em ruột thịt, có khi chỉ vì vài câu nói, mấy mét nhà, tranh chấp nhau là có thể vác dao ra chém nhau rồi.
– Con có ra phố chơi đâu nào!
– Lại còn cãi! Thôi ăn đi. ở nhà quê bây giờ là sung sướng nhất. Có đâu bữa sớm lo bữa chiều như cán bộ, công nhân thành phố, như nhà máy. Tự dưng tự lành, ai đánh ai đập mà mặt mày sưng vù với cả tím bầm!
Đoan vốn ít lời, ngậm miệng nhai miếng cơm. Tâm tương do giấc mơ của con gái gọi, bỗng vương vương một hoài cảm man mác. Cuối thu rồi. Nắng rực như đất vàng. Và heo may như một linh hồn xa vắng từ cõi nào trở về, xao xác mỗi vòm lá rậm, quấy động trong các khoảng trống vắng nơi cõi lòng. Mấy năm trước, cứ vào quãng này, thì chị Thảo, chị gái Đoan lấy chồng ở nông thôn, khăn gói lên chơi với gia đình Đoan. Không hẹn mà chẳng bao giờ sai. Không có lời ước định mà chính xác như thời tiết tuần hoàn, như việc đồng áng quay vòng. Lúc ấy, vụ mùa đã gặt hái xong. Thóc lúa đã đầy hòm, đầy bịch. Vụ xuân còn ở xa. Đang là lúc nông nhàn ở quê chị. Chị xởn xơ, thanh nhã, lại như cố kìm giữ niềm hứng khởi tràn đầy, ngầm ngập vào việc sửa soạn, rồi tay xách nách mang, vất vất vả vả, chen lấn lên tàu xuống xe, cuối cùng xuất hiện ở giữa nhà quê, xời lời chuyện trò, chầm bập hỏi han, tưởng chừng như đó là những khoảnh khắc không bao giờ gặp lại, để xả thoát tình thương nỗi nhớ ruột rà đã tích tụ cả mấy chục năm trời.
Bức tranh đã đóng khung ổn định.
Nhớ tới chị Thảo là Đoan nhớ tới ngọn gió heo may lồng lộng và khoảng trời cuối thu tràn trề làn sáng phản quang niềm vui mùa màng. Là Đoan nhớ tới một người phụ nữ đẹp, duyên dáng, tâm hồn cực kỳ trong trẻo và giàu có tình yêu thương, vừa dung dị, vừa cao quý, hoà quyện với cảnh sắc đồng quê lộng lẫy, tạo nên một bức tranh vừa hoành tráng vừa thân thiết dị thường. ấy là những ngày được nạm bằng vàng hiếm hoi. Người phụ nữ nông thôn lên còn giữ nguyên được sự tinh tế, thanh lịch trong ứng xử. Niềm vui vừa chân chất vừa huy hoàng chan chứa trong gia đình, tràn sang cả xóm giềng. Cây mía. Vài lạng đậu xanh. Nửa cân bột sắn. Lời thăm hỏi người già. Bàn tay vỗ về trẻ nhỏ. Thật giản dị mà chẳng bao lâu, chị đã tạo lập nên một quan hệ thân tình, đậm đà hương vị thôn dã, với cả những gia đình lân cận nhà vợ chồng em trai mình.
– Có đến hai năm nay bác ấy không lên chơi nhà mình mẹ nhỉ? Hay là bác ấy quên?
Thuý vẫn ngây thơ, lay láy nhìn mẹ. Đoan nhận ra, nó là đứa trẻ rất hay mặc cảm. Nó toét miệng:
– Năm nay thế nào bác ấy cũng lên mẹ nhỉ? Mà lên thì thế nào bác ấy cũng cho nhà mình bánh đa thái. Con thích bánh đa thái ở quê bác ấy lắm cơ! Vợ Đoan, đậy nồi cơm đến cạnh, ngước hai hàng mi dầy rậm lên, nhìn con gái, đột ngột:
– Sang năm, thì hết cấp xong, tao cho về quê bác ấy hẳn một tháng mà chơi. Mà ăn bánh đa thái mỏng với gạo mới cho nó sướng. Về đúng vụ gặt mà xem. Trong nhà, ngoài sân, trên trời dưới đất, đâu cũng thóc. Cơ man là thóc. Ngao ngán là thóc. Ngồi trên thóc, ngủ trên tiền. Thật là vô sự, vô sách mà vô lo vô lự, sướng cả đời Bác mày giàu, giàu lắm, chứ không xác vờ như bố mày đây! Đoan quay đi, có giữ giọng đều hoà:
– Nông thôn làm ra hạt thóc nên hơn thành phố về mặt thóc gạo là phải rồi. Nhưng, còn những như cầu khác? Nói chung… thì cũng vẫn là cái cảnh nghèo khó thâm căn của dân mình thôi. Thuý như được thể, nối lời bố:
– Nhà bạn con có ông chú nhà quê lên ở nhờ chữa bệnh, nghèo ơi là nghèo bố ạ. Quần áo ông ấy còn rách bằng mấy quần áo mình thải ra cơ. Có một cái chăn chiên đắp cả mùa đông, bố ạ. Ra đây, ông ấy nhặt nhạnh từ cái chậu thủng, đôi dép đứt quai, đến cái bô vỡ đem về dùng. Quê ông ấy, cả xóm chỉ có độc một nhà có ti vi.
– Quê bác Thảo thì không đến nỗi thế.
– Bố ơi, hay là con viết thư cho bác Thảo nhé?
Vợ Đoan từ nãy vẫn nặng nặng, nghe con gái hỏi, liền đập mạnh đôi đũa vào cạnh nồi, đứng phắt dậy quàu quạu:
– Thôi đi! Khách với khứa! Y như bò thấy nhà táng ấy, tôi sợ khách lắm rồi!
*
* *
Chẳng cần thư từ, hẹn định, nhắc nhở. Mấy năm trước là vậy. Là cứ như ngọn gió heo may đưa chị gái Đoan lên thăm gia đình Đoan. Chẳng sai lạc, chẳng lỗi nhịp bao giờ.
Các cuộc viếng thăm định kỳ ấy thường bao giờ cũng có vài mục đích cụ thể. Hàng đầu là cuộc thăm nom, sang sửa phần mộ ông bà, cha mẹ. Sau nữa là mua bán, sắm sánh, chữa bệnh… Tuy nhiên, dẫu những việc trên có quan trọng và cấp bách đến thế nào, cả Đoan và chị gái Đoan vẫn cứ nhận ra rằng cuộc viếng thăm còn có một ý nghĩa thiêng liêng sâu thẳm rất khó diễn đạt bằng lời. Đời sống tâm linh còn có bao nhiêu nẻo đường khuất khúc. Trẻ con vẫn lưu giữ một xứ sở thần tiên trong ký ức. Thiên đường, Cực lạc còn sống trong tiềm thức nhân loại. Chị gái Đoan lên thăm gia đình, chị hành hương về quê tổ, về cõi nhớ xa xăm!
Người gốc gác đô thị, nhưng đi trái chiều lịch sử, chị gái Đoan lấy chồng nông thôn. ấy là vì tình yêu có một nấc cao hơn cả lịch sử. Anh là thợ cày, nhập ngũ trở thành chàng Vệ quốc quân từ năm năm mươi. Chị là gái thành phố tản cứ, thanh sắc hơn người, trở thành diễn viên văn công cùng những năm đó. Họ gặp nhau ở chiến dịch cuối dùng của cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Phải duyên, mê nhau là kéo nhau về làng anh, làm lễ cưới ngay sau khi hoà bình lập lại. Chị tình nguyện bỏ nếp sống nghệ sĩ và thành thị, tập tành công việc ruộng đồng một nắng hai sương, quen dần với cuộc đời sống gái quê lam lũ nơi thôn ổ. Vì tình, cuộc hoà nhập có khúc mắn cũng có thể vượt qua.
Nhưng mà thực tình chị Thảo của Đoan chuột sa chĩnh gạo. Đất đồng bằng cấy cày trồng tỉa đã dư ngàn năm còn mấy nơi bờ xôi ruộng mật được như thế. .. Đây là vùng trọng điểm lúa. Thêm đặc sản lợn và lạc, nên còn gọi tắt là vùng Ba Lờ, Trù Phú, ấm no hiển hiện tưa tên các xóm làng bao giờ cũng khởi đầu tiền tố Gạo. Gạo Nam, Gạo Bắc, gạo Đông, gạo Đoài. Ruộng làm ăn tới chân bờ tre. Địa giới xã này xã kia phân ngay trên mặt ruộng. Ruộng liền ruộng. Đi cấy, dậy từ từ mờ, phải sáng bừng mới ra tới mảnh ruộng của mình ở giữa đồng để cắm cấy mạ. Mùa gặt, thôn xóm như mạ vàng mười. Cây rơm nhà nào nha nấy cao là hòm khoá chuông vẫn một kiểu thô sơ, cố giản như đẽo gọt bằng rìu từ thời Hùng Vương, nằm chềnh ềnh như là rất vô lý ở chính gian giữa.
Đời sống no đủ và tình yêu vừa sâu sắc, vừa giản đơn, mang dấu ấn thời cuộc, thích hợp với một gia đình chồng đi công tác xa vợ ở nhà làm ruộng nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ già, phân li hai ngả và vẫn hài hoà, lại kiêu hãnh và giàu chất thơ mộng. Đóng quân trên Tây Bắc nức tiếng anh hùng, tiễu phỉ được ít lâu thì anh chuyển sang làm đội trưởng ở một nông trường khai thác gỗ, cũng có thể coi như chuyến mồi trường để anh thi thố tài năng sức cống hiến cho sự nghiệp miền núi tiến kịp và vượt miền xuôi. ở quê chồng, chị như được phép lạ, hoá thân trở thành hết kiện tướng phân bắc, phan xanh, lại chiến sĩ thi đua làm thuỷ lợi. Viết thư cho nhau toàn kể chuyện sản xuất, chiến đấu và động viên nhau gắng sức để xứng đáng là đoàn viên đảng viên. Một năm, mười hai ngày anh về phép là mười hai ngày hội hè, lễ tết. Khách ra vào từ sáng chí tối. Đàn gà mấy chục con vỗ béo được dịp vãn dần. Bếp rơm suốt ngày um khói. Chè Thái Nguyên bã đổ đầy ụ mấy gốc nhài. Chị vào ra, má đỏ rạng, tưng bừng từ trong sâu xa.
Bức toàn cảnh, định hình trọn vẹn ngày anh về hưu ngồi nghễu nghện trên lưng một chiếc xe tải thồ bốn khối gỗ quí, tặng phẩm đặc biệt của lâm trường dành cho người có công khai phá. Thợ xẻ, thợ xây, thợ mộc dựng công trường liền một năm trời. Năm sau, anh tóc râu đốm bạc, lung còng dáng ông lão, khoác cái áo đại cán sờn cổ, ngồi trên cái sập gụ, tay thông nõ điếu, mắt nheo nheo, mãn ý ngắm vuốt cái giang sơn xinh xắn toàn bích của mình. Nhà mái bằng rồi, tủ li, tủ lệch, tủ gương, tủ đứng, giương đôi, giương một toàn lát hoa, lát chun kiểu mô đéc nhất rồi. Tường vôi ve sáng trưng cả dãy khung kính lồng huân chương các loại cùng ảnh kỷ niệm thời trai trẻ dọc ngang đày kiêu hãnh. Tối thứ bảy bạn bè cùng trà lứa quây quần đôi hồi chuyện cũ và theo dõi vở cải lương phát từ cái đài xiong-mao mua cung cấp đã có vỏ da, lại lồng trong cái túi vải hoa chị may tay mà đẹp như máy. Đậm đà dấu tích ở mọi nơi ở mọi lúc vẫn là một cốt cách phụ nữ đô thành, có nền nếp gia phong, thanh lịch mà không xa cách, đảm lược mà không lầm lũi, thô mộc. Chị đã điểm giao thoa của hai nguồn ánh sáng, nhưng trong tâm thức vẫn hướng về thị thành. Chẳng khác được, từ lời ăn tiếng nói đến cách giáo dưỡng con cái. Hai con, một gái, một trai, lạy trời, xinh xắn, giỏi giang giống mẹ như đúc, chuyện trò với bè bạn thi thoảng lại buột miệng “quê mẹ tứ ở thành phố kia!”
Người phụ nữa ấy sau hai năm vắng biệt, trưa nay dường như là đột ngột xuất hiện ở nhà Đoan. Dường như là từ tâm khảm Đoan bước ra, từ bức tranh định hình theo mường tượng của Đoan bước ra. Gương mặt cười hoa, đẹp trang nhã và cổ điển, chị đứng trong làn nắng hanh vàng, tay cầm nón múc gió, trong niềm vui hồi tố không sao kìm giữ được, cất tiếng vang vồng gọi tên Đoan. Từ trong nhà chạy ra, Đoan thấy mình như đang ở trong mơ.
ối bác Thảo! Cháu biết ngay là thế nào hôm nay bác cũng lên mà. Sáng nay ngồi trong lớp mà cháu cứ máy mắt liên tục, bác ạ.
Thuý reo, cầm tay bác Thảo quàng lên vai mình. Chị gái đoan xoa đầu con bé:
– Thuý lớn quá rồi. Bẵng đi đến hai năm rồi đấy.
– Cháu tưởng bác quên rồi.
– Quên thế nào được. Hai năm rồi, năm thì bà cụ bên nội hai năm mươi. Năm thì sang áo cho ông bác. Năm nay gặt hái xong đã định thu xếp lên ngay, biết là cậu mợ và cháu mong, thì rập vào việc người ta xin cái Lượng. Rồi tôi ốm. Trở lạnh, bỗng dưng thấy thức ngực quá, ốm nằm lệt bệt mới biết mình già rồi. Cậu cũng có tóc bạc rồi kia kìa. Người phụ nữ cúi xuống cởi gỡ đàm hành lý và sản vật làm quà mang theo, giấu một niềm trắc ẩn nào đó, chép miệng:
– Đi đúng ngày xấu, xúi quá. Ô tô chết suốt dọc đường. Đến bến, chẳng còn cái ôtô buýt nào. Đành lên cái xe lam. Tưởng cũng giá nhà nước qui định. Nào ngờ đến giữa cầu, ông lái xe tư mới dừng lại, bấu mỗi khách nộp hai chục nghìn. Năm cây số, hai chục nghìn, hơn yến gạo. Quá bóp hầu bóp cổ khách!
– Thuý đang đung đưa tay bác, bỗng rãy lên:
– Sao bọn họ ác thế? Bác nhất định không chịu chứ!
– Giời không chịu đất thì đất cũng phải chịu giời, cháu ạ. Mình ở thế yếu mờ. Cực nữa là sờ đến cái túi xách tay lấy tiền thì, ôi thôi, kẻ cắp đã rạch ngang một nhát, móc mất cái ví tiền rồi.
– Thế bác làm thế nào? Khổ thân bác quá!
– Bác vẫn còn tiền chứ, chỉ buồn là lắm cảnh người bức hiếp người, hãi quá! à mờ thôi… Vừa hé mở, người phụ nữ lại vội vàng khép kín tâm tư: Thuý giúp bác cất dọ các thứ này đi. Chả có gì đâu. Hai con gà này, thịt hay nuôi cho đẻ mờ ăn trứng. Bánh đa thái, bác đổi thóc của nhà. Bột sắn dây bác trồng… còn chỗ này là quà biếu của các bà láng giềng. Ơ, mẹ cháu đi làm không về buổi trưa à?
Xâm xẩm tối vợ Đoan mới từ nhà máy về. Y đi lối sau, vào buồng đang thay quần áo thì cái Thuý nhảy lò cò vào “Mẹ ơi…” Không để con kịp nói, y đã lừ mắt, khe khẽ rít: “Biết rồi! Lên từ trưa chứ gì. Khiếp! Nom cứ như bà lão nhà quê!” Rồi vừa cài cúc áo, vừa ra phòng ngoài, đổi mặt vồn vã:
– Bác Thảo mới lên đấy ạ. Lâu nay bác vẫn được bình thường chứ? Thuý ơi, vo gạo nấu cơm bác ăn đi, con.
Trực giác đàn bà ít khi sai. Đoan ra khỏi ảo giác. Sau hai năm không gặp lại, giờ đây, ngồi đối diện với Đoan không còn là người chị gái tươi đẹp, óng ả năm xưa. Trước mặt Đoan là một hình hài khác, một kiếp phận khác, một tâm trạng khác. Trước mắt Đoan là một bà lão nhà quê mùa còm cõi, mệt mỏi và bất an. Trước mắt Đoan là thân xác và tinh thần của một đời sống lao lực, quá sức và triền miên trong dày vò, cắn dứt, tuy cố nhẫn nhịn mà vẫn tiết ra xung quanh một nỗi buồn hiu hắt.
– Cảm ơn mợ, tôi vẫn còn gánh gồng, cày cấy được. Còn mợ, hồi nay hồng hào, khoẻ mạnh hơn trước đấy nhỉ!
Đáp lại giọng nói rầu rầu của người chị gái chồng, bà em dâu cười ré lên, rồi rổn rảng:
– Khoẻ gì mà khoẻ! Sắp chết đói đến nơi rồi đấy, chị ơi. Dạo này nghe báo, đài nói, ở thôn quê làm ăn khấm khá lắm có phải không? Sao mấy năm rồi chị không lên chơi? Bố nó nhắc luôn. Còn cái Thuý thì mê thấy chị lên luôn ấy.
Cái vui, sự niềm nở, thực sự chỉ là giữ lễ.
Đoan là nhà báo, từng trải, hiểu đời hiểu người, nhận ra từ hôm đó, vợ Đoan ngoài mặt thì giữ sự vui vẻ, còn bên trong thật tình y bực bội, khó chịu hết sức.
Nhà có khách, khách lại là người ruột thịt, mà chủ nhà lại bực bội, khó chịu thì thật là vô lý. Vô lý nhưng lại rất dễ hiểu. Về sau này. Đoan hiểu vợ Đoan rất ngại phải chi tiêu tốn kém. Vợ Đoan là thợ dệt, lương bổng tàm tạm. Mức sống gia đình, nhờ có Đoan chống đỡ, cũng không đến nỗi. Nhưng, vợ Đoan cũng như bao nhiêu kẻ xuất thân từ nghèo khó, lại trải qua mấy chục năm trường với cuộc sống thiếu hẳn sự an toàn cần thiết, con người phải bó buộc phải phát sinh tập tính tự vệ, nên cần kiệm, tính toán đến thành chắt bóp, hà tiện đã trở thành thói quen nhiễm vào máu thịt, nếp sống. Dạo còn chế độ tem phiếu, lĩnh lương xong, mỗi khoản chi, to nhất như mua gạo, mua dầu, nhỏ như tiền cắt tóc, xà phòng, kim chỉ, y đều chia, cho vào từng phong bì, phân miệng, không khoản nào được lẹm sang khoản nào đâu. Đậu kho cả nồi, nhưng mỗi bữa mỗi người ba miếng là không có hơn. Hai lạng giò để ăn hai bữa, ngon miệng ăn liền một bữa là y ca cẩm cả tuần. Gạo đong thiếu vài lạng, thịt mua thiếu vài hoa, y cũng đạp xe đạp đi cả giờ, đòi đủ bằng được. Khách chồng đến chơi, vui miệng hút liền ba bốn điều thuốc là y lườm y nguýt. “Thóc đâu cho chó ăn no, cho gà ăn đủ”. Y nói. Y xót từng trăm bạc, vì trăm bạc là hai mớ rau, vì trăm bạc là một phần mười lăm tiền công một ngày của y. Beo thắt, bủn xỉn, không cho ăn mày đến cả tờ hai chục rách, nhưng y cũng chẳng ăn bớt xén, ăn không ăn hỏng của ai đến đồng. Công bằng mà xét, ky bo như vợ Đoan cũng có căn nguyên hoàn cảnh và cũng không phải là một thói xấu tệ hại.
Nghe cái Thuý mỗi bữa lấy gạo nấu cơm, lại đong hỏi: “Mẹ ơi, bốn người, hai bơ mấy lẻ hở mẹ?” Bác Thảo cười:
– ở nhà quê, các cháu của cậu mợ cứ vục vào thùng gạo, đầy phè nồi thì thôi.
Vợ Đoan lầm lầm mặt:
– ở thành phố, thế có chết!
Quả thật, đời sống vốn đã chẳng dễ dàng gì. Tự kiếm sống đã làm cả một công cuộc lớn lao huống hồ lại đèo bồng, cưu mang. Nhưng đã nói thì phải nói cho hết nhẽ. Tính toán ra thì đâu có phải là đèo bồng, cưu mang. Bác Thảo ý tứ lắm, đâu có phải con người chỉ biết ái kỷ, để thiệt thòi cho người khác. Vỗn người thành phố, chị dâu có lạ kiểu sống cán bộ ba cọc ba đồng. ở một tháng thì chị đã đem biếu vợ chồng Đoan sắn dây, đậu xanh… Không nên nghĩ đến sự sòng phẳng ở đây, nhưng nêu chi lý nhẩm tình thì vợ Đoan đâu có phải chịu thiệt!
Tất nhiên, nhà có khách ngoài sự tốn kém vật chất dù được đền bù bằng cách nghĩ: Xởi lởi thì trời cho, bo bo thì trời co lại, thì cũng còn một nỗi phiền hà không sao tránh được: ấy là sự thiếu hoà hợp, trạng thái tâm lý phải ép buộc phải giữ kẽ, mất tự nhiên. Giờ đây, khi mỗi gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế, xã hội khép kín, có tập quán văn hoá riêng, một cá thể bên ngoài nhập vào chẳng khác gì một chi tiết khác lạ này lắp ghép vào một cơ thế kia, miễn dịch học đã chứng tỏ, nó sẽ bị chối bỏ, đẩy ra. Cứ xem cái cách xây cất, rào giậu cổng ngõ của các băn hộ gia đình ở thành phố những năm gần đây thì biết, ngoài lý do an ninh ra, các gia đình còn muốn công khai bày tỏ khuynh hướng biệt lập, riêng rẽ của mình. Nhưng mà, ừ thì cứ cho là đúng như vậy, thì chả lẽ, với một người là ruột thịt thân thiết, và chỉ là làm khách vãng lai dăm bữa nửa tháng, lại không thể nhãng đi chút ít cá tính mà thực hiện sự hoà đồng? Dễ người dễ , khó người khó ta, chẳng đã từng có lời chỉ bảo đó rồi hay sao!
May mắn, xoá mờ đi cái dối trá của sự ứng xử theo chữ lễ mà nhờ ở sự hồn nhiên của cái Thuý. Thuý quấn lấy bác nó, tự nhiên và gắn bó như cùng chung một mệnh hệ. Theo tử vi, nó chung lá số với bác nó. Lạ thế! Nó trở thành cái cầu nối kéo mọi người lại gần nhau, giảm bớt đi sự căng thẳng ngấm ngầm. Hai bác cháu chả mấy lúc trở thành hai người bạn vong niên. Hai người như hình với bóng, như chập làm một, chia sẻ hết mọi niềm vui, nỗi uẩn khúc cho nhau. Lắm khi Thuý nghiêm trang như một người lớn tuổi. Và bác nó lại giống như một cô học trò ngoan, rất lễ độ.
– Cứ gì phải biết làm ruộng mới thi vào đại học nông nghiệp, hả cháu? Mới lại, làm ruộng cũng chả khó đâu. Một lần trò chuyện, bác Thảo nói – Hồi mới về nông thôn cái gì bác cũng lạ. Trông thấy con trâu nghênh sừng cũng hãi.
– Thế tại sao lại ở thành phố, bác lại về nhà quê
– à… chuyện ấy thì dài lắm. Nhẩn nha rồi bác kể. Dưng mà… chẳng qua cũng là cái duyên, cái số… Gì thế, cháu?
– Bác nói, giọng nó khang khác thế nào ấy. Trời bác ấy nói là giời. Sợ bác nói là hãi. Nhưng mà bác nói là dưng mờ. Bảo bác nói là bầu.
– Ăn nước ở đâu nói giọng ở đó mờ, cháu.
– Bác Thảo này, thế lần này lên đây, bác phải ở thật lâu cơ!
Người phụ nữ ngẩng lên, ngỡ ngàng trước yêu cầu của đứa cháu gái. Thuý tiếp:
– Bác ở đây cháu thích lăm.
– Dưng mở…
– Không! Bác cứ phải ở đây thật lâu cơ. Để cháu làm cho bác trẻ ra. Để bác không nói dưng mờ nữa. Bố cháu bảo: Hồi trẻ, bác xinh nhất trường nữ học đấy. Có đúng không?
Nén một hơi thở như ghim giữ bầu tâm sự đang ứ tràn, bà chị gái Đoan cúi xuống, mắt chớp chớp, đầy vẻ nhẫn nhịn.
Vợ Đoan lúc ấy đang ở trong buồng, như thừa cơ, nói hắt ra:
– Bác Thảo đừng có nghe cái Thuý. Nó lười lắm. Có bác ở đây, có người trông nhà, nấu cơm để nó tha hồ chơi nhởn đấy.
Thuý xịu mặt:
– Đâu mà!
Bác Thảo rầu rầu:
– Cháu nó vẫn nấu cơm đấy, mợ ạ. Tôi làm gì nó cũng không cho làm. Với lại, dạo này tôi mệt mỏi quá, có động tay động chân, nhúc nhắc được việc gì đâu.
***

(còn một kì nữa)

M.V.K

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder