Hoa huệ trắng. Và bức tường cũng trắng.
Sao bóng hoa trên tường lại đen ?
Em đừng nhìn đi đâu nữa em
Anh không biết vì sao anh có lỗi
Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi:
Sao bóng hoa trên tường lại đen…
(1969-1987)
Rút trong tập Cuối rễ đầu cành (1994),
Bài thơ này nhiều người nhầm là của tác giả Henrich Hainơ (Đức), và có một số dị bản như sau:
Bản 1:
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng,
Sao bóng hoa trên tường lại đen ?
Em nhìn đi đâu thế em ?
Ừ anh biết chúng mình không có lỗi,
Nhưng lòng anh băn khoăng tự hỏi:
Sao bóng hoa trên tường lại đen ?
Có thể nào anh lại không tin…
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng,
Ai biết được giữa cuộc đời kỳ lạ lắm,
Mà bóng em buồn ngả xuống lòng anh.
Bản 2:
Hoa huệ trắng, và bức tường cũng trắng,
Sao bóng hoa trên tường lại đen ?
Em đừng nhìn đi đâu hỡi em,
Anh không biết vì sao, ai có lỗi,
Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi:
Sao bóng hoa trên tường lại đen ?
Có thể nào anh lại không tin…
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng,
Ai biết được giữa cuộc đời kỳ lạ lắm,
Mà bóng em buồn ngả xuống lòng anh.
Bản 3:
Hoa huệ trắng
Bức tường cũng trắng
Sao bóng hoa trên tường lại đen
Em đừng nhìn đi đâu thế em
Không ai biết
Vì sao ai có lỗi
Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi:
Sao bóng hoa trên tường lại đen.
Câu chuyện nhỏ về Nhà thơ Bế Kiến Quốc: Từ nghi án “Hoa huệ” đến “Bóng đen” – Nguyễn Việt Chiến
Tôi kể lại câu chuyện dưới đây như một sự tưởng nhớ đến anh, một người bạn văn chương thân thiết đã đi xa, nhưng thơ anh vẫn còn ở lại với những độc giả thơ hôm nay.
Cách đây chừng hai chục năm, khi còn làm ở Báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, tôi chơi khá thân với nhà thơ Bế Kiến Quốc và đã có dịp làm sáng tỏ một “nghi án” văn chương liên quan đến một bài thơ tình của anh. Sự việc bắt đầu từ bài thơ “Hoa huệ” của Bế Kiến Quốc in trên Báo Người Hà Nội ra ngày 1/7/1990 với những câu thơ:
Huệ trắng, bức tường trắng
Sao bóng hoa lại đen
Em đừng nhìn đi đâu nữa em
Anh không biết vì sao, ai có lỗi
Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
Sao bóng hoa trên tường lại đen
Bế Kiến Quốc cho biết, bài thơ tình này anh viết tặng một người bạn gái cùng học năm thứ hai Khoa Ngữ văn- Đại học Tổng hợp Hà Nội khi trường sơ tán ở Đại Từ, Thái Nguyên, năm 1967. Mối tình trắc trở giữa hai người và hình ảnh ngọn đèn dầu hắt bóng hoa lên tường thành màu đen đã giúp anh viết nên bài thơ tình độc đáo ấy.
Bài thơ “Hoa huệ” với bản thảo đầu tiên mang tên là “Bóng đen” gồm 10 câu thơ được Bế Kiến Quốc đọc trong các đêm thơ sinh viên và được các bạn chép tay, chuyền đi. Khi ấy, không ai nghĩ rằng, 2 năm sau, Bế Kiến Quốc đoạt giải Nhì cuộc thi thơ 1969-1970 của Báo Văn Nghệ (nhà thơ Phạm Tiến Duật đoạt giải Nhất). Nhưng phải hơn 20 năm sau, bài thơ “Bóng đen” được đổi tên thành “Hoa huệ” mới được công bố trên Báo Người Hà Nội với bản thảo đã được nhà thơ Bế Kiến Quốc rút gọn từ 10 câu thơ xuống còn 6 câu thơ như trên.
Câu chuyện về bài thơ trên không chỉ dừng ở đó. Sau khi bài thơ “Hoa huệ” được công bố, tháng 9/1992, tôi tình cờ có trong tay cuốn Almanach “Người mẹ và phái đẹp” (một cuốn bách khoa thư về phụ nữ) do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành (nộp lưu chiểu tháng 12/1990). Khi đọc phần tuyển chọn những bài thơ tình hay của thế giới và Việt Nam, tôi giật mình đọc thấy tên nhà thơ nổi tiếng thế giới Henrich Hainơ (Đức) ở bài thơ “Bóng đen” với 10 câu thơ sau:
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng
Sao bóng hoa trên tường lại đen
Em nhìn đi đâu thế em
Ừ, anh biết chúng mình không có lỗi
Nhưng lòng em băn khoăn tự hỏi
Sao bóng hoa trên tường lại đen
Có thể nào anh lại không tin
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng
Ai hiểu được cuộc đời kỳ lạ lắm
Mà bóng em buồn ngả xuống giữa lòng anh
Phía dưới bài thơ ghi rõ “Rút từ tập thơ Hainơ – NXB Văn học 1970”. Tôi giật mình vì sự giống nhau đến kỳ lạ giữa hai bài thơ có cùng một tứ thơ, nhưng nhà thơ vĩ đại người Đức Henrich Hainơ đã mất từ lâu rồi, nên chắc chắn “cụ” ấy không bao giờ đọc thơ Bế Kiến Quốc.
Tôi mang cuốn “Người mẹ và phái đẹp” đến cho Kiến Quốc đọc và hỏi: “Anh giải thích như thế nào về Hoa huệ và Bóng đen khi có ý kiến cho rằng anh đã “thuổng” thơ của Henrich Hainơ?”. Bế Kiến Quốc ngơ ngác, thất thần nhưng anh cũng đã chỉ rõ bài thơ “Bóng đen” 10 câu in trên cuốn Almanach “Người mẹ và phái đẹp” mang tên Henrich Hainơ chính là bản thảo đầu tiên gồm 10 câu của bài thơ “Bóng đen” anh viết năm 1967, chính vì bài thơ có tựa đề u ám như thế nên không thể nào in được vào thời điểm đó. “Sau này thấy bài thơ “Bóng đen” có vẻ hơi dàn trải, một vài câu hơi thừa, một vài chỗ chưa ưng ý lắm, nên tôi đã sửa lại cho cô đọng hơn và đổi tên bài thơ thành “Hoa huệ”. Còn, vì sao bài thơ “Bóng đen” lại được đưa vào sách và nhầm thành của Henrich Hainơ thì tôi hoàn toàn không hiểu”, Bế Kiến Quốc băn khoăn.
Để tìm lời giải đáp, người viết bài này đã đến gặp nhà thơ Lữ Huy Nguyên (lúc ấy là Giám đốc NXB Văn học) để tìm hiểu tập thơ Hainơ được xuất bản năm 1970. Ông Nguyên và tôi đọc toàn bộ tuyển thơ này, thấy không có bài Bóng đen và hoàn toàn không có một ý thơ, một tứ thơ, một hình ảnh thơ nào tương tự như thế. Để làm rõ hơn, nhà thơ Bế Kiến Quốc và tôi đến gặp nhà thơ Quang Huy (lúc đó là Giám đốc NXB Văn Hóa – nơi in cuốn “Người mẹ và phái đẹp”). Cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra con đường “sai sót” đưa bài thơ vào tập sách, vì ở cuối phần chọn thơ có ghi rõ những người tham gia tuyển chọn có cả “Tập thể sinh viên năm thứ ba, thứ tư trường Đại học Sư phạm Hà Nội”. Như vậy, bài thơ “Bóng đen” chép tay, lưu truyền trong giới sinh viên đến mức “tam sao thất bản” nhầm lẫn cả tên tác giả đã được đưa vào một cuốn sách khá nổi tiếng.
Về việc trên, năm 1992, nhà thơ Quang Huy thay mặt NXB Văn hóa đã xin lỗi nhà thơ Bế Kiến Quốc, trả nhuận bút bài thơ “Bóng đen” và hứa khi tái bản lần sau sẽ sửa chữa lại cho đúng.