– Ngươi biết một mà không biết hai. Cú kêu ai cũng bảo là điềm xấu, không biết rằng cú là loài kiếm ăn ban đêm, khi no nê rồi nó thường kêu, cũng như các loài chim khác khi cao hứng thì hót vậy… (Tiếp kì 17)
– Ngươi biết một mà không biết hai. Cú kêu ai cũng bảo là điềm xấu, không biết rằng cú là loài kiếm ăn ban đêm, khi no nê rồi nó thường kêu, cũng như các loài chim khác khi cao hứng thì hót vậy.(Tiếp kì 17)
Như thường lệ, khi các quan đại thần vào chầu, lính tráng và kẻ hầu người hạ chỉ được phép đưa đến cửa Đại Hưng rồi thì ở đấy chờ họ đến khi bãi triều. Đã mấy lần Nguyễn Kính khuyên Trần Chân dâng biểu xin vua cho được mang một người vào theo để bảo vệ, Chân không nghe, bảo: “Ta chỉ cần lừ mắt là ai cũng sợ hết vía, việc gì phải mang theo người nào? Nếu có chuyện, ta chỉ cần thanh gươm đây là đủ.”.Hôm ấy không phải buổi thiết triều, nhưng là ngày sinh nhật Trần Chân, nên nhà vua gọi riêng Chân vào để ban cho chiếc đai ngọc. Đêm trước Nguyễn Kính nghe thấy tiếng chim cú kêu ngoài vườn nên nói với Trần Chân trước khi y vào cung:
– Hôm nay tướng quân vào triều phải thận trọng. Tốt nhất cho chúng tôi vào theo.
Trần Chân bảo:
– Ngươi biết một mà không biết hai. Cú kêu ai cũng bảo là điềm xấu, không biết rằng cú là loài kiếm ăn ban đêm, khi no nê rồi nó thường kêu, cũng như các loài chim khác khi cao hứng thì hót vậy. Hôm nay sinh nhật ta, nhà vua gọi ta vào ban thưởng, cũng như chim cú được bữa ăn no vậy, có gì phải lo. Các ngươi đi hầu ta, cứ chờ ngoài cửa Đại Hưng như mọi hôm là được.
Trần Chân ung dung bước vào điện Thị Triều. Nhà vua còn chưa ra, xung quanh chỉ có mấy hoạn quan đứng hầu, thấy trên tay Quảng vụ Thái giám Lê Khoái là chiếc đai ngọc, Chân khẽ gật đầu, tủm tỉm cười với Lê Khoái. Chiếc đai thực đẹp, dát đủ bảy thứ ngọc. Chân đoán chiếc đai ấy nhà vua ban cho mình nên định đến gần để xem thì Lê Khoái bỗng buông tay để đai rơI xuống đất, Chân chưa hiểu sao thì đã bị phục binh từ sau màn xô ra bắt trói. Chân vốn là Đô lực sĩ nên rất khoẻ, mặc dù tay bị giữ chặt không thể rút được gươm nhưng Chân vẫn tay không chống lại một khá lúc lâu mới chịu để bắt. Thái giám Lê Khoái đọc chỉ tuyên cáo tội trạng Trần Chân rồi đưa ngay ra sân rồng chém đầu. Lê Khoái đem đầu Trần Chân lên lầu trên cửa Đại Hưng giơ cao cho bọn Nguyễn Kính trông thấy:
– Trần Chân coi thường phép nước, mưu toan phản nghịch đã bị trị tội. Đồng đảng của hắn đầu hàng thì sống, chống lại thì chết. Nay bố cáo tất cả để biết.
Cái đầu được quăng xuống, dù mặt mũi biến dạng, máu me be bét vẫn nhận ra đúng là đầu Trần Chân. Cùng lúc cửa Đại Hưng mở toang, Đoan quận công Ngô Bính tiến ra. Ngay đó, phía cửa Đông Tràng An là Tưởng Quận công Chử Khải, phía cửa Tây Tràng An là Thọ Quận công Trịnh Hựu. Theo sau họ nhấp nhô quân Cẩm Y gươm giáo tua tủa. Nguyễn Kính ít quân thấy vậy liền hô lính tháo chạy về phủ, gọi thêm Nguyễn Áng, chỉnh đốn đội ngũ rồi khua ba hồi trống thúc quân đánh cửa Đại Hưng. Hai hôm sau, thêm Hoàng Duy Nhạc kéo quân từ Sơn Nam lên, các tì tướng Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thái từ Yên Lãng tới. Quân Cẩm Y không chống nổi, Đô lực sĩ Đinh Dự bị Nguyễn Kính giết chết, chặt đầu buộc trước ức ngựa, đi đến đâu quân triều đình khiếp sợ đến đó. Đang đêm vua Chiêu Tông phải trốn ra chùa Bồ Đề rồi qua sông chạy sang Gia Lâm, lấy Xúc Ý Đường làm cung điện, quân lính và các đại thần xung quanh không còn bao nhiêu.
Quân Sơn Tây tha hồ cướp phá kinh thành.
Không còn cách nào khác nhà vua phải sai Bích Khê hầu Lê Công Uyên vào Thanh Hoa gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra cứu giá. Công Uyên cải trang làm người bán ngựa cùng hai người đi theo mang năm con ngựa để cưỡi thay đổi, đi suốt ngày đêm vào Tống Sơn, giữa đường thì gặp Trịnh Tuy. Công Uyên hỏi:
– Vĩnh Hưng bá đem quân đi đâu?
– Ta đem quân ra Đông Kinh.
– Ông đã biết Thiết Sơn hầu Trần Chân bị giết chưa?
– Ta chưa biết, ai giết?
– Hoàng thượng giết chứ ai. Vậy Vĩnh Hưng bá ra kinh để giúp vua hay báo thù cho Thiết Sơn hầu?
Trịnh Tuy không trả lời, hỏi lại:
-Thế còn ông vào Thanh Hoa làm gì?
Nghĩ Trần Chân là con nuôi của Trịnh Duy Sản, lại từng bênh Trịnh Tuy mà đánh cha con Nguyễn Hoằng Dụ phải chạy về Tống Sơn nên Công Uyên nói dối:
– Kinh đô bây giờ loạn lạc nên ta lánh về quê ít ngày, nếu yên thì ta lại ra, không thì quyết dứt bỏ cân đai về vui thú thanh nhàn.
Hai bên chia tay nhau. Trịnh Tuy muốn ra Bắc nhưng tình hình bỗng thay đổi nên buộc Tuy phải nghĩ khác. Đến Sơn Nam, Trịnh Tuy cho quân dừng lại, sai người ra Đông Kinh dò la, người ấy về nói kinh thành đã rơi vào tay anh em Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, vốn không ưa hai anh em nhà họ nên Trịnh Tuy ra lệnh quay trở lại.
Về phía Nguyễn Hoằng Dụ, nghĩ giận ngày trước Chiêu Tông nghe theo Trần Chân sai Đăng Dung truy đuổi mình đến tận cửa Đáy, nên bảo Công Uyên: “Thiên hạ thiếu gì người, không họ Trịnh thì có Đăng Dung cứu giá, cần gì đến quân Tống Sơn hèn yếu của ta!” và dứt khoát không xuất quân! Công Uyên trở ra Bắc thuật lại lời Hoằng Dụ, Thái hậu thở dài: “Không ngờ An Hoà hầu lại như vậy” và gọi Đô ngự sử Đỗ Nhạc lại trách:
– Nhà ngươi chả bảo vời họ Nguyễn ra phò vua nữa đi!
Đỗ Nhạc ngượng đỏ mặt.
Quân Sơn Tây từ hồi Trần Tuân cho đến nay liên tục sáu bảy năm chinh chiến, trận mạc dạn dày, ngày mấy lần qua sông đánh Gia Lâm khiến triều đình rất nguy ngập. Hà Văn Chính tâu:
– Chỉ có một người có thể cứu được triều đình lúc này!
– Ai? – Thái hậu hỏi.
– Tâu Thái hậu, Hoằng Dụ giận nói năng càn rỡ nhưng vô tình lại giúp triều đình nhớ đến một người, đấy là Tổng trấn Hải Dương, Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung. Đăng Dung tuy là thông gia với Trần Chân nhưng đó là chuyện cầu thân bất đắc dĩ vì khi đó Chân khoẻ mà Dung thì yếu. Đăng Dung là người hiểu biết và thận trọng, y không thể vì một đứa con dâu mà báo thù cho cha nó, phản lại triều đình!
Mọi người nhìn nhau không nói gì nhưng ai cũng biết lúc này chỉ còn cách cầu cứu Mạc Đăng Dung. Nhưng liệu Đăng Dung có nghe và sau đấy ai mà biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thái hậu lại trách bọn Ngô Bính, Trịnh Hựu, Chử Khải:
– Các ngươi khuyên mẹ con ta giết Trần Chân, bây giờ đã thấy tác hại chưa?
Hà Văn Chính tâu:
– Bây giờ trách hết người này đến người khác cũng không giải quyết được gì. Xin Thái hậu và bệ hạ cho thần đi Hải Dương.
Thái hậu thở dài:
– Vậy thì ngươi đi ngay đi!
Vua sai Lê Đại Đổ cùng Hà Văn Chính mang chỉ dụ của vua Chiêu Tông lên đường ngay lúc đó, vì trấn phủ Hải Dương ở Gia Phúc cũng gần nên ngay trong ngày hôm ấy hai người đã tới nơi.
Nhận được chỉ của vua, Đăng Dung nói với Hà Văn Chính:
– Tôi dẫu có lưu luyến tình riêng với Thiết Sơn hầu cũng không thể vì cớ đó mà phản lại triều đình, hơn nữa, làm loạn kinh thành bây giờ là đám Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc nên tôi không thể chối từ. Nhưng quân Sơn Tây đang mạnh nên trước tiên tôi sẽ dùng lời lẽ thuyết phục họ lui quân, nếu không được bấy giờ sẽ động binh cũng chưa muộn.
Mạc Đăng Dung lập tức lên đường, mặt bộ tự mình đi tiên phong, Nguyễn Bỉnh Đức làm Tham quân, mặt thuỷ sai Mạc Đốc, Mạc Quyết đưa toàn bộ chiến thuyền từ Phố Hiến ngược sông Hồng lên giữ Bồ Đề. Nhưng vì vội và hành quân thụ động, binh lương mọi thứ so với quân Sơn Tây đều kém nên sau khi làm chủ Gia Lâm, đầu tiên Đăng Dung dời vua đến điện Thuần Mỹ ở Bồ Đề để tiện theo hầu, sau đó xin vua viết thánh chỉ giao cho Mạc Quyết và Nguyễn Bỉnh Đức cùng Bích Khê hầu Lê Công Uyên sang sông dụ anh em Nguyễn Kính đầu hàng triều đình.
Quân Sơn Tây đưa Lê Công Uyên, Mạc Quyết, Nguyễn Bỉnh Đức vào gặp Nguyễn Kính. Kính vẫn điềm nhiên ngồi, ngao mạn đưa tay định đón thánh chỉ. Bỉnh Đức ra hiệu cho Công Uyên khoan trao thánh chỉ, nói với Nguyễn Kính:
– Sao không quỳ đón thánh chỉ?
Nguyễn Kính cười:
– Chỉ nay mai là ta bắt được hết vua tôi các ngươi, sao lại phải quỳ?
Bỉnh Đức nói:
– Tướng quân nhầm! Quân Sơn Tây thắng thế chỉ là tạm thời. Mặt Nam, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ đang huy động toàn bộ quân Thanh Hoa kéo ra Bắc. Mặt Đông Mạc Đăng Dung đã đưa được Thái hậu và nhà vua tới chỗ an toàn, hiện đã giăng quân suốt tả ngạn Nhị Hà, sẵn sàng đón quân Sơn Tây. Mặt Bắc vệ Thiên Bồng đang từ Mê Linh tiến về Phù Lãng. Nội đô thì quân Vũ Lâm đang tập hợp lại. Còn tướng quân chỉ len men một dải hữu ngạn Nhị Hà từ Sơn Tây về đây. Ngay Đà Giang, Tuyên Quang gần kề Sơn Tây tướng quân còn chẳng làm chủ được nữa là mong làm được gì hơn! Tốt nhất tướng quân nên nhận thánh chỉ mà quy phụ triều đình. – Bỉnh Đức chỉ vào Mạc Quyết, hỏi Nguyễn Kính: Tướng quân có biết đây là ai không? Là Đông Sơn bá Mạc Quyết, em Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung.
– Ta đã gặp ngươi trong đám cưới cháu ngươi là Đăng Doanh với con gái Thiết Sơn hầu, đúng không? Thiết Sơn hầu vô cớ bị triều đình giết hại, ta chỉ là tướng dưới quyền mà còn dám cất quân báo thù; anh em ngươi là thông gia với Thiết Sơn hầu, đã không biết rửa nhục lại đến đây định dụ hàng ta ư? Khôn hồn thì tất cả đi cho khuất mắt ta, đừng để ta quá giận!
Mạc Quyết nói:
– Tướng quân thử nghĩ xem, nếu chỉ để trao thánh chỉ thì chỉ cần Bích Khê hầu đây là đủ, việc gì bận đến hai chúng tôi. Chúng tôi là người của triều đình nhưng xét cho cùng lại là người của Vũ Xuyên hầu. Chúng tôi đến đây chính là vì tướng quân đó. Anh em tôi là thông gia với Thiết Sơn hầu mà còn quy theo lẽ thuận, huống chi tướng quân chỉ là tướng dưới quyền của Thiết Sơn hầu mà lại cố chấp đến thế sao?
Nguyễn Kính ngẫm nghĩ rồi bảo:
– Ta có ba yêu cầu.
– Xin tướng quân cứ nói.
– Thứ nhất, ta biết việc này không phải do vua mà do lời dèm pha của Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính. Nay nếu giết ba người ấy đi thì vua tôi lại như cũ, không dám mưu toan gì khác cả. Hẹn đúng đầu giờ Tị ngày mai, ta sẽ ra sông nhận bọn Khải, Hựu, Bính. Thứ hai, được vậy, ta sẽ rút quân khỏi kinh đô trở về Sơn Tây. Thứ ba, vậy rồi thì triều đình cũng không được tiến đánh Sơn Tây của ta.
Lê Công Uyên nói:
– Trước hết ngươi hãy nghe thánh chỉ rồi ba điều của ngươi chúng ta sẽ về tâu với Hoàng thượng.
Chỉ của Chiêu Tông yêu cầu quân Sơn Tây phải triệt thoái, nhà vua hứa sẽ phong tước cho các thuộc hạ cũ của Trần Chân. Nghe xong Nguyễn Kính bảo:
– Các ngươi hãy về tâu lại yêu cầu của ta. Được như vậy ta mới tuân theo thánh chỉ và nhận phong tước, với yêu cầu được giữ Sơn Tây như cũ.
Ba người về tâu vua ba yêu cầu của Nguyễn Kính. Vua tôi nhìn nhau, cùng bàng hoàng. Vua hỏi ý các đại thần. Đỗ Nhạc, Nguyễn Dự, Hà Văn Chính tức vì nhà vua không nghe theo ý mình mà lại nghe theo bọn Chử Khải nên cùng tâu:
– Tưởng Quận công Chử Khải, Thọ Quận công Trịnh Hựu, Đoan Quận công Ngô Bính đều là tôi trung. Xưa nay tôi trung vì chúa mà xả thân cũng nhiều, chính Lê Lai từng chết thay vua Thái Tổ nên vua Thái Tổ mới có được thiên hạ mà truyền cho con cháu cho tới ngày nay! Mất ba người ấy mà triều đình được yên, dân chúng thoát được cảnh binh đao, cũng tốt lắm thay.
Thái hậu thở dài:
– Ba người đều là đại thần, lâu nay bao nhiêu việc đều bàn với họ, chả nhẽ lại đối xử với họ thế sao!
Nhà vua dùng dằng không dứt khoát.
Đúng hẹn, anh em Nguyễn Kính, Nguyễn áng cho tất cả chiến thuyền giương buồm. Nguyễn Kính ngồi trên soái thuyền chờ đầu bọn Ngô Bính, tên lính đứng sau cầm sẵn dùi trống sẵn sàng phát lệnh tấn công. Bên kia sông chiến thuyền triều đình thấy vậy cũng sẵn sàng nghênh chiến. Bấy giờ nhiều đại thần, tướng sĩ quây quần bên nhà vua. Đô chỉ huy sứ vệ Thiên Bồng là Đàm Cử hỏi Mạc Quyết:
– Ngươi sang bên ấy thấy thực lực giặc thế nào?
– Quân số giặc mười phần ta chỉ sáu phần, thuyền bè giặc mười phần ta năm phần, khí thế giặc mười phần ta một phần!
– Vậy thì không còn cách nào khác là phải nghe bọn chúng! – Đàm Cử nói. Nhà vua bưng mặt khóc, quay nói với bọn Chử Khải:
– Các khanh hãy vì triều đình, vì trẫm. Vợ con các khanh trẫm hứa lo cho chu đáo!
Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính cùng khóc:
– Xin Thái hậu và bệ hạ cứ để bọn thần sang trại giặc, cho chúng thấy khí tiết bọn thần mà khiếp sợ.
Ba người xuống chiếc thuyền nhỏ, sang sông.
Ngay trưa, quân Sơn Tây căng buồm đón gió đông nam, ngược sông Nhị Hà rút lên Sơn Tây, nhưng vẫn liên tiếp lập ba trại quân thuỷ dọc theo sông, trại tiền tiêu đặt ở bến đò Chèm.
Thấy Nguyễn Kính không từ bỏ hẳn ý đồ làm phản và nhòm ngò kinh đô, Chiêu Tông cũng không phong tước cho bọn họ như đã hứa. Mạc Đăng Dung xin vua dời đến Bảo Châu cho xa hẳn giặc. Đô ngự sử Đỗ Nhạc và Phó đô ngự sử Nguyễn Dự can vua đừng theo, nhất quyết không để Đăng Dung lấn dần mà điều khiển. Biết chuyện, Đăng Dung bảo: “Có người nói với ta ngày trước chính hai người này đã bày kế để Thiết Sơn hầu và ta triệt hạ lẫn nhau, nay lại xúi vua không nghe theo ta dời đến Bảo Châu. Ta cũng vì sự an toàn của nhà vua chứ đâu mưu tính gì. Còn để bên vua những kẻ gièm pha như vậy không thể được!”. Đăng Dung liền sai Hộ vệ là Đinh Mông bắt Đỗ Nhạc và Nguyễn Dự đem giết ở vườn dâu cửa bắc hành doanh, sau đó rước Thái hậu và nhà vua tới Bảo Châu. Thái hậu nói với vua: “Mẹ con ta thoát được tai nọ, lại gặp phải vạ kia mất rồi!”.
(còn tiếp)
L.V.K