Mạc Đăng Dung – tiểu thuyết của Lưu Văn Khuê – Kì 30

Sau đấy Nguyễn Thì Ung, Nguyễn Cư Nhân được giao soạn văn bia; Nguyễn Ngạn Chiêu viết những chữ chân, Nguyễn Tấn viết chữ triện cho thợ dựa vào đó mà chạm vào bia; thợ đá do Bộ Công tuyển chọn. Bảy tháng sau bia được dựng ở Quốc Tử Giám, đúng vào ngày đông chí, tháng 11 năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529)…(Tiếp kì 30)

Sau đấy Nguyễn Thì Ung, Nguyễn Cư Nhân được giao soạn văn bia; Nguyễn Ngạn Chiêu viết những chữ chân, Nguyễn Tấn viết chữ triện cho thợ dựa vào đó mà chạm vào bia; thợ đá do Bộ Công tuyển chọn. Bảy tháng sau bia được dựng ở Quốc Tử Giám, đúng vào ngày đông chí, tháng 11 năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529).(Tiếp kì 30)

Một năm trôi qua nhanh, thấm thoát đã đến kỳ thi Hội. Lúc này đã qua Tết Nguyên đán được hơn tháng nhưng làng nào có người lên kinh thi Hội thì không khí cứ như những ngày giáp Tết. Cả làng đến chúc mừng, nhắc nhở. Những ai nghèo còn được hàng xóm láng giềng góp tiền góp gạo. Một người đi thi nhưng đến dăm ba người đi theo, ít ra là tiễn đến đầu làng hoặc đầu huyện rồi mới về; từ đấy đến kinh đô cũng thường có người đi theo để gánh đồ đạc, lo cơm nước, đến kinh đô thì lo chỗ ăn chỗ ở để sĩ tử chỉ chuyên tâm vào việc thi cử.

Đường phố kinh đô trước ngày thi đâu đâu cũng thấy các sĩ tử. Đây cũng là dịp làm ăn của các hàng quán, nhà trọ, của thầy bói thầy cúng và của cả các ca nữ. Người hàng phố từ đứa trẻ con trở đi cũng nhận ra các sĩ tử bởi vẻ ngơ ngác, lạ lẫm, đầy cao ngạo nhưng cũng đầy lo lắng. Họ tụ tập đến kín cả cổng trường thi. Danh sách sĩ tử dài dằng dặc, bảng nọ tiếp bảng kia, tuy nhiều nhưng danh sách xếp theo từng huyện nên việc tìm ra tên trong bảng cũng không đến nỗi vất vả lắm. Chỗ niêm yết các chữ cần phải kiêng tránh trong bài thi cũng ở ngay bên cổng trường thi còn đông hơn nữa vì sĩ tử còn phải ghi chép để nhớ: Mục “Trọng huý dĩ hạ” dặn nho sinh không được dùng một số chữ trong bài thi, mục “Kính khuyết nhất bút” dặn họ vì kính trọng mà khi viết chữ phải bớt đi một nét, rồi mục “Khiếm trang”, “Khiếm tị”… Vì triều đaị mới nên hàng loạt điều căn dặn ấy đều mới khiến bao nhiêu điều đã được ghi nhớ từ trước đến giờ đều không còn có ích. May sao những chữ cần phải kiêng tránh không nhiều, chỉ bằng một phần mười các khoa trước.

Hôm trước kỳ thi, Binh bộ Thượng thư là Khánh Khê hầu Mạc Ninh Bang (Nguyễn Bỉnh Đức) vào tâu, có hai sĩ tử họ Lê, một tên là Thực ở huyện Văn Giang và một tên là Tảo ở huyện Từ Liêm biết đâu chả lại là con cháu nhà Lê. Vua Mạc nói:

– Nếu đúng như vậy thì cũng là điều mừng chứ sao!

Nguyễn Bỉnh Đức lại tâu sĩ tử tên là Phạm Thọ vốn không phải tên họ như thế nhưng vì là con của một đại thần triều Lê cũ, ông này quyết không ra làm quan cho triều Mạc và ngăn cản cả con ra làm quan; người con lại quyết đi thi nên người cha uất quá mà chết năm ngoái. Người con đổi tên là Phạm Thọ cho khỏi liên luỵ.

Vua Mạc bảo:

– Người con có một cái đúng và hai cái sai: Quyết đi thi là đúng. Nhưng  không nghe lời cha tới mức làm cha uất quá mà chết, đã vậy cha mất mới có một năm, chưa đoạn tang mà đã đi thi là cái sai thứ nhất; dám thay tên đổi họ là cái sai thứ hai. Sai nhiều hơn đúng, đáng lẽ phải cấm thi cử suốt đời nhưng xét cái tâm với triều ta nên cho giữ lại kết quả thi Hương, phạt đến khoa sau mới được thi Hội. Việc ra đề trẫm đã giao cho quan Đề điệu là Thái bảo Diễm Quốc công Mạc Kim Tiêu, việc giữ quy củ trường thi thì giao cho khanh.

– Có người phàn nàn với hạ thần chuyện khoa này Nguyễn Giản Thanh và  Đinh Trinh đọc quyển.

– Nguyễn Giản Thanh không những đang là Lễ Bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ mà từng đỗ Trạng nguyên; Đinh Trinh thì là Lại Bộ Thượng thư, Quốc tử giám Tế tửu. Hai người ấy đọc quyển thì còn phàn nàn gì?

– Thần muốn nói đến Nguyễn Giản Thanh. Ông ta đúng là có năng lực mặc dù khoa thi năm Mậu thìn đáng lẽ ngôi Trạng nguyên phải thuộc về Hứa Tam Tỉnh. Tâu bệ hạ, người ta phàn nàn về điều khác.

Khoa thi năm Mậu thìn (1508) niên hiệu Đoan Khánh đời vua Lê Uy Mục, các giám khảo chấm Hứa Tam Tỉnh, người làng Vọng Nguyệt, tên Nôm là làng Ngọt, đỗ Trạng nguyên; Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc, tên Nôm là làng Me, đỗ Bảng nhãn. Đến khi các tiến sĩ tân khoa ra mắt nhà vua và bà Kính phi, mẹ nuôi vua, thấy Giản Thanh trông cốt cách phong lưu, mặt mũi đẹp đẽ nên Kính phi bảo: “Trạng nguyên đấy có phải không, xứng đáng quá còn gì!”. Uy Mục không muốn thay đổi kết quả thi Đình, cũng không muốn làm mếch lòng Thái phi, bèn ra đề cho các tiến sĩ tân khoa thi ứng chế. Đầu đề là Phụng thành xuân sắc (cảnh sắc mùa xuân ở kinh thành), làm theo thể phú. Giản Thanh khôn ngoan nghĩ Thái phi hẳn ít chữ nghĩa nên  làm phú Nôm, Tam Tỉnh cứ theo lệ làm phú chữ Hán. Kết quả, bài của Giản Thanh đọc lên bà Thái phi nghe đến đâu hiểu ngay đến đấy và nức nở khen hay còn bài của Tam Tỉnh, Thái phi thấy trúc trắc khó hiểu! Uy Mục đành phải lấy Nguyễn Giản Thanh  lên đỗ Trạng nguyên để chiều lòng Thái phi, còn Hứa Tam Tỉnh bị đánh tụt xuống Bảng nhãn. Chính vì vậy nho sĩ bất bình và đặt ra câu “Trạng Me đè Trạng Ngọt” để nói về chuyện ấy và gọi giễu Giản Thanh là “Mạo Trạng nguyên”. Thi cử thì như vậy nhưng sau này trên đường quan lộ càng ngày Nguyễn Giản Thanh càng tỏ ra xuất chúng hơn Hứa Tam Tỉnh.

– Tâu Hoàng thượng, – Nguyễn Bỉnh Đức nói tiếp – người ta bảo Nguyễn Giản Thanh vốn là học trò của Đàm Thận Huy!

– Trẫm biết, nhưng điều ấy có sao đâu. Bởi chính Đàm Thận Huy cũng được trẫm sắc phong và ban tiền bạc cho con cháu lập đền thờ đó thôi. Thuở nhỏ khanh học với trẫm, sau này trong các khai quốc công thần thì Vũ Hộ, Nguyễn Thế An và khanh có công lớn nhất. Vũ Hộ mang 3000 quân theo trẫm, giữ vững Sơn Tây, khi tiến khi lui khiến quân nhà Lê không thể rảnh tay mà đánh Hải Dương nên có người nói nhà Lê mất ngôi chính là do Vũ Hộ. Khanh thì giúp  trẫm lấy đất Hải Dương làm nơi căn bản, chăm lo dân chúng khiến lòng dân ngay từ đầu đã quy thuận, cùng đứng dưới cờ nghĩa. Nay triều đại mới cần phải quy tụ mọi người trong nước, mong khanh hiểu sâu sắc ý chỉ đó của trẫm mà hành động cho thuận. Vũ Hộ và khanh lại như chiếc gương của đương triều cho mọi người soi vào mà thấy hết vẻ đẹp của nó.

Bên cạnh đạo vua tôi giữa vua Mạc và Mạc Ninh Bang – Nguyễn Bỉnh Đức còn có tình bạn và tình đồng môn nên để không khí đỡ nặng nề, nhà vua hỏi:

– Trẫm nghe nói ngày trước theo học Đàm Thận Huy, Nguyễn Giản Thanh có đáp lại câu ra đối của thầy hay lắm phải không?

– Tâu Hoàng thượng, Đàm Thận Huy có dạo mở trường dạy học. Hôm ấy  tan học thì trời đổ mưa, học trò không về được, Thận Huy mới đọc vế ra đối “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách” và bảo học trò đối. Nguyễn Giản Thanh đối như sau: “Sắc bất ba đào dị tịnh nhân”, thầy khen hay, văn có thể đỗ trạng được nhưng sau này tất vì sắc dục mà hại đến sự nghiệp. Nguyễn Chiêu Huấn thì đối là: “Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân”, thầy bảo câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu của Giản Thanh nhưng tỏ rõ khí chất hiền hoà, sau này cuộc sống sẽ chu toàn nhưng không nổi danh lắm. Người thứ ba xin lỗi thầy và các bạn rồi mới đọc câu của mình: “ Phân bất uy

quyền dị sử nhân” (*), thầy Huy chê là thô nhưng sau này có thể dùng cái bỉ lậu mà sai khiến được người. Tâu bệ hạ, những điều bình phẩm của Đàm Thận Huy chưa thấy ứng với Nguyễn Giản Thanh nhưng đến nay quả đã đúng với Nguyễn Chiêu Huấn và người thứ ba, người này giờ đây giàu sang phú quý nên nhiều người phải quỵ luỵ nhưng cũng bị chê là thô lỗ!

Nhà vua bảo:

– Càng nói trẫm càng thấy tiếc Đàm Thận Huy! Nhưng hai học trò Nguyễn Giản Thanh và Nguyễn Chiêu Huấn của ông ấy đều đang phục vụ đương triều nên trẫm thấy vẫn mang ơn tri ngộ của Thận Huy.

– Tâu Hoàng thượng, đang vui thần cũng xin kể về Hứa Tam Tỉnh. Chuyện do chính ông ta nói với thần, chuyện cũng vui lắm. Học giỏi, chữ nghĩa bề bề mà Tam Tỉnh lại chịu cứng họng trước vế ra đối của một cô gái.

Nhà Tam Tỉnh vốn nghèo, cha lại mất sớm. Một hôm ra đường gặp võng quan Tổng trấn Kinh Bắc, sau võng quan là võng tiểu thư nhà quan, thấy tiểu thư nhan sắc chim sa cá lặn, Tam Tỉnh liền xin với người khiêng võng cho mình được thế chân cốt để tha hồ mà ngắm mỹ nhân. Về nhà, Tam Tỉnh xin mẹ hỏi tiểu thư nọ làm vợ. Bà mẹ can con không nổi đành phải chiều ý. Quan Tổng trấn không chê người nghèo khó, cốt sao giỏi giang nên đòi Tam Tỉnh đến để thử tài học. Vừa thấy Tam Tỉnh, quan đã thất vọng vì anh này người vừa đen vừa nhỏ, may sao hỏi đến sách vở thì đối đáp trôi chảy. Quan mới lưu Tam Tỉnh lại nhà để dạy bảo thêm, sau Tam Tỉnh đỗ thủ khoa thi Hương, lúc bấy giờ quan mới cho thành hôn với con gái mình. Nhưng thật oái oăm, tiểu thư ra vế đối, bảo Tam Tỉnh đối được thì mới cho động phòng! Biết Tam Tỉnh ngày trước nhà nghèo, mái nhà rách nát nhìn thấy cả trời, tiểu thư mới ra vế đối: “ốc lậu nguyệt xuyên, hình như kê noãn tam tam tứ tứ”. Cái khó của câu này là bốn chữ “tam tam tứ tứ”. Tam Tỉnh không nghĩ ra, buồn và xấu hổ đến mức định ra sông trẫm mình thì thấy bóng trăng trên mặt nước làm long lanh muôn nghìn lớp sóng từ đó mà nghĩ ra vế đối sau: “Giang trường phong lộng, thế tự long lân điệp điệp trùng trùng” (**). Tiểu thư nghe xong vô cùng cảm phục, lại thấy qua vế đối chứng tỏ chồng tỏ ra khác thường, liền cho vào động phòng.

________________

(*) Nghĩa bốn câu lần lượt là: 1. Mưa không có then khoá mà giữ được khách. 2. Sắc đẹp không phải là sóng gió mà làm đắm được người. 3. Mặt trăng giống như cái cung nhưng không bắn người ta. 4. Phân cứt không có uy quyền gì mà sai khiến được người.

(*)  Nghĩa đôi câu đối: Nhà thủng trăng dọi xuống, bóng như trứng gà lốm đa lốm đốm/ Sông dài gió lộng, sóng tựa vẩy rồng điệp điệp trùng trùng.

– Thế mới biết tài năng có khi còn nhờ gặp may nữa. – Nhà vua nói và bỗng cười – Giả dụ Hứa Tam Tỉnh không đối được câu của tiểu thư thì chả nhẽ một người thà chết, một người tiếng là đã có chồng mà không được một ngày làm vợ sao?

– Thần cũng đã hỏi Hứa Tam Tỉnh câu đó, ông ta chỉ cười.

Vua tôi cùng vui vẻ.

Hôm mấy chục sĩ tử trúng thi Hội bước vào thi Đình, ngày 18 tháng Hai, vua Mạc tới điện ra “ngự đề”. Đề bài như sau: “Khi chân nguyên hoà hợp thì hào kiệt trong thiên hạ xuất hiện. Kẻ sĩ như các khanh chính là hào kiệt do khoa mục tiến thân. Nay trời giao cho trẫm nắm vận mệnh lớn, các khanh học rộng biết nhiều, có phương thức gì giúp trẫm trị nước thì trình bày để trên không phụ với lòng trời, dưới không phụ với sở học thường ngày”.

Nhìn sĩ tử cặm cụi làm bài, có người thỉnh thoảng còn cao hứng rung đùi, nhà vua vô cùng hài lòng.

Mấy hôm sau chấm xong, Nguyễn Giản Thanh, Đinh Trinh chọn được 27 người xuất sắc, dâng quyển để vua xem xét, định thứ tự trên dưới. Hai vị giám khảo nói:

– Trong những người này, bài của Đỗ Tông là hơn cả nhưng chúng thần rất băn khoăn. Tông là người làng Lại ốc, trấn Hải Dương, cha Tông là Đô ngự sử Đỗ Nhạc vì ngăn cản việc quân nên bị bệ hạ giết. Chúng thần đã định không tấu trình Đỗ Tông lên bệ hạ nhưng sợ tội nên bảo nhau hãy cứ tường trình đầy đủ để bệ hạ xem xét. Nếu lấy đỗ, lại cho đỗ đầu, chúng thần e sau này có chuyện.

– Việc nào ra việc ấy, đừng có nghĩ quýt làm thì cam cũng phải chịu. Chớ có định kiến. Hãy cứ lấy đỗ. Trẫm trọng hiền tài, chắc hiền tài cũng sẽ không phụ trẫm.

Nhà vua xem hết các bài rồi ban cho Đỗ Tông, Nguyễn Hàng, Nguyễn Văn Huy, 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ, 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân, 16 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Ngày 24 nhà vua tới điện Kính Thiên truyền loa xướng tên người đỗ, sau đó Bộ Lại ban ân mạng cho các tiến sĩ,  Bộ Lễ bưng bảng vàng tới yết trước cử nhà Thái học. Ngày hôm sau căn cứ vào cấp bậc vua ban tiền bạc cho các tién sĩ tân khoa, ngày 27 ban cho họ cân đai áo mũ, ngày 28 cho dự tiệc tại Bộ Lễ, sau đó cho thăm vườn Ngự Uyển và đi chơi phố kinh đô mấy ngày liền. Sang ngày 7 tháng Ba cho họ vinh quy, cử lính đi cùng để mang biển, đồ đạc và võng lọng. Các thứ bát đĩa, cốc chén họ dùng trong lúc làm bài đều được đem về.

Sau đấy Nguyễn Thì Ung, Nguyễn Cư Nhân được giao soạn văn bia; Nguyễn Ngạn Chiêu viết những chữ chân, Nguyễn Tấn viết chữ triện cho thợ dựa vào đó mà chạm vào bia; thợ đá do Bộ Công tuyển chọn. Bảy tháng sau bia được dựng ở Quốc Tử Giám, đúng vào ngày đông chí, tháng 11 năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529). Hôm ấy các vị đại thần và các tiến sĩ tân khoa đều có mặt đông đủ.

(Còn tiếp)

L.V.K

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder