Vanhaiphong: Giới thiệu một truyện ngắn của tác giả Nguyễn Anh Đào. Ông là Giáo viên nghỉ hưu tại Vân Cơ Việt Trì Phú Thọ, đã có nhiều tiểu thuyết và tập truyện ngắn xuất bản. Truyện “Nàng Hinh và những khúc quan hoài” là tác phẩm được giải nhì (không có giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Sông Hương – Hội VHNT Thừa Thiên Huế)…
Vanhaiphong: Giới thiệu một truyện ngắn của tác giả Nguyễn Anh Đào. Ông là Giáo viên nghỉ hưu tại Vân Cơ Việt Trì Phú Thọ, đã có nhiều tiểu thuyết và tập truyện ngắn xuất bản. Truyện “Nàng Hinh và những khúc quan hoài” là tác phẩm được giải nhì (không có giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Sông Hương- Hội VHNT Thừa Thiên Huế)…
Nàng Hinh vào Phú Xuân đã gần hai tháng. Giữa cảnh ngựa xe tấp nập, khăn áo lượt là, muôn hồng nghìn tía của chốn kinh thành không làm cho nàng nguôi ngoai nỗi nhớ cố hương. Ở cái làng nằm khuất dưới những rặng liễu bên Hồ Tây, vào mùa này rực lên màu vàng của những cuộn tơ óng ả vắt bên bờ giậu. Gió thu lồng lộng mơn man như những ngón tay thiếu nữ nhẹ bứt những chiếc lá đào úa vàng rắc xuống hồ, làm thành những chiếc chong chóng quay tít trên mặt nước. Nàng đắm chìm trong nỗi nhớ nhà, nhớ kinh thành nước cũ với những đền đài, chùa miếu, tuy không thật uy nghi tráng lệ nhưng in đậm dấu vết của thời gian mà mỗi triều đại như hằn lên đó những nét tinh hoa của một nền văn hiến ngàn năm.
Chiều qua, lúc dạo chơi ở vườn Thượng Uyển cùng các cung nữ, nàng đang mải mê nhìn ngắm mấy con thiên nga bơi lội dưới hồ sen thì Thiều Hoa kéo vai nàng bảo:
– Chị Hinh! Hoàng thượng cho gọi chị đấy.
Nàng ngạc nhiên:
– Sao? Hoàng thượng cũng có ở đây?
– Phải. Ngài ở trên lầu ngự.
– Người bảo sao?
– Ngài hỏi: “Người kía có phải là vợ ông Lưu Nghi, hiện là Tri huyện Thanh Quan đó không?”. Chúng em tâu “Phải”. Thế là ngài cho gọi. Chị lên mau đi, Hoàng thượng đang chờ.
Nàng theo Thiều Hoa nhẹ nhàng đặt chân lên những phiến đá ngũ sắc, bước lên lầu bát giác, nơi vua Minh Mệnh đang ngồi uống trà và thưởng hoa cùng hai cung nữ xinh đẹp.
– Muôn tâu bệ hạ, thần xin bái kiến! – Nàng cúi mình thi lễ.
Đức vua phẩy tay:
– Khanh bình thân!
Nàng đứng dậy, lùi ra phía sau hai bước. Cho tới khi vai tựa vào lan can chạm hình rồng thì nàng ngồi xuống ghế rồi ngước đôi mắt nhìn đức vua. Ngài mặc áo ngắn bằng lụa mỏng, nẹp viền kim tuyến, tóc búi gọn, khuôn mặt hồng hào, vuông vức với cái cằn nhọn, điểm chòm râu xanh biếc. Ngài cũng nhìn nàng rồi hỏi:
– Khanh vô đây lâu chưa? Ở ngoài nớ, ông Phạm Quý Thích có được mạnh không?
Nàng cúi đầu:
– Muôn tâu bệ hạ. Thần thiếp vào đây được hai tuần trăng. Chưa biết ý bệ hạ dùng vào việc gì. Còn ngoài Bắc Thành, Lập Trai tiên sinh đang bệnh.
– Ông ấy vẫn dạy học?
– Dạ phải. Ngoài ra, thầy còn gắng để hoàn thành bộ “Thảo đường thi tập” trước khi về với tiên tổ.
Minh Mệnh gật đầu lẩm nhẩm một mình: “Cáo quan ở triều đình để về sống ẩn dật, ốm o với cái nghề gõ đầu trẻ, lại còn viết sách, làm thơ, đúng là cốt cách của đám nho sĩ Bắc Hà”.
Bỗng ngài ngửng lên, nhìn thẳng vào mặt nàng:
– Vậy khanh cũng là học trò của ông Thích, cùng với ông Siêu, ông Lý?
– Dạ. Thần thiếp phận gái, cỏ nội hoa hèn, dẫu có học hành thì cũng là lỗ mỗ. Có hiểu biết chút gì, chẳng qua cũng là để giúp cho việc nội trợ, và sau này nếu sinh hạ thì bảo ban con cái.
– Hồi trước ông Thích vô trong ni làm ở Viện Sử tu có tiến cử khanh với triều đình. Trẫm có nghe tin, khanh là người học rộng lại giỏi thơ Nôm, nức tiếng Bắc Thành nên ta cho triệu để mục sở thị.
Nói rồi, Minh Mệnh sai lấy giấy, bút, mực và chỉ vào bức tranh sơn thủy treo ở tường lầu, hỏi:
– Chắc khanh đã nhận ra cảnh trong bức họa này là ở đâu rồi chứ?
– Dạ. Đó là dãy Hoành Sơn, chỗ nhô ra biển mà mọi người vẫn quen gọi là Đèo Ngang. Tháng trước, thần thiếp đã được chiêm ngưỡng cảnh trời nước bao la khi qua đây.
– Khanh họa một câu cho ta xem thử.
– Thần thiếp không dám tự tiện, nếu bệ hạ không phê trước.
– Được. Đưa bút đây!
Cung nữ dâng bút. Minh Mệnh vén một bên tay áo, tay kia vung bút viết một hàng chữ bên phải bức tranh:
“Quải thư bích thượng tận thâu tứ hải sơn hà” – (Bức tranh treo trên tường thu tóm hết cả bốn bể núi sông).
Rồi ngài đưa bút cho nàng:
– Khanh đối ta coi.
Nàng Hinh nhìn qua bức tranh rồi cầm bút ghi luôn một dòng bên trái:
“Tẩy túc trì trung giao động cửu thiên tinh đẩu” – (Rửa chân giữa ao làm động cả chín tầng trời sao).
Nhà vua nhìn chằm chằm vào vế đối của nàng, hai mắt hoa lên trước nét chữ như rồng bay phượng múa. Trong khoảnh khắc, nét mặt Ngài hơi tái đi, chòm râu rung rung như người lên cơn sốt. Nhưng vốn đắm chìm trong uy quyền và mưu lược, nhà vua trấn tĩnh ngay lại, đôi mắt dời bức tranh, quay sang nhìn người thiếu phụ có khuôn mặt phảng phất như một áng mây chiều, mờ mờ sương khói. Vua Nhà Nguyễn như bị hút vào đó, chơi vơi giữa chốn vô cùng… Nhưng ngay đó, Ngài như bừng tỉnh, cười gượng:
– Hay! Nhưng thái quá. Ta muốn thâu tóm cảnh vật trong tĩnh lặng mà nàng thì khuấy động cả trời sao. Liệu có câu nào mềm mại hơn thế không?
– Khi nãy bệ hạ bảo thần đối nên phải tuân theo niêm luật. Còn cảnh Đèo Ngang thì thần thiếp đã có sẵn mấy câu tức cảnh. Nếu bệ hạ không cho là nôm na, quê mùa thì thiếp xin đọc:
– Vậy thì đọc đi nghe chơi!
Nàng Hinh vừa nhìn tranh, vừa đọc:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái đa đa…”
Nàng dừng lại. Minh Mệnh hỏi:
– Còn hai câu kết, khanh đọc tiếp đi!
– Hai câu đó chính là vế đối mà bệ hạ đề bên phải bức tranh. Ở bệ hạ thì có khi treo trên tường hoặc cuộn lại để vào trong tay áo. Còn thiếp thì cất giữ trong trái tim mình – Nàng vừa nói, vừa đặt tay lên ngực.
Minh Mệnh thốt lên:
– Chú cha! Hay đó! Nôm na mà như rứa thì kém chi Hán, Đường. Thật là danh bất hư truyền!
Ngừng một lát, rồi Ngài nhìn thẳng vào mặt nàng, hỏi:
– Nhưng theo ý khanh, “nhớ nước” là nước nào vậy?
– Nước Thục. Chẳng lẽ bệ hạ không còn nhớ chuyện vua Đỗ Vũ hay sao? Nước mất, Đỗ Vũ nhớ tiếc, hóa thành con chim đỗ quyên, suốt ngày kêu “Thục quốc! Thục quốc!” cho đến khi nhỏ máu ra miệng mà chết.
– Ừ, phải. Nhưng như thế thì da diết quá! Còn Vương triều Nguyễn ta nay lừng lẫy, uy nghi, vững như bàn thạch, lẽ nào lại để chúng thần như nàng phải nhớ tiếc cái triều Vua Lê, Chúa Trịnh khốn kiếp ấy. Khà, khà…! Vậy, từ rày nàng ở luôn trong cung thất, trông nom dạy bảo cung nữ cho ta. Chúng được kén chọn kỹ càng từ các xã ấp đưa về đây, hầu hết là gái Nam Hà. Về nhan sắc thì do tạo hóa tô vẽ, chẳng nói làm gì. Nhưng còn tư chất thì khiếm khuyết lắm, phải có người chỉ bảo. Ngoài việc quay tơ, dệt cửi, băm bèo, hái dâu ra, chúng chẳng biết gì về giáo lý và thuật điểm trang, sự lịch lãm làm duyên so với gái Bắc Hà cũng còn kém lắm. Nên ta phong cho nàng là “Cung trung giáo tập” – (Người dạy học cho các cung nữ). Lại ban khăn áo hàm lục phẩm để sau này mãn nhiệm về quê ngoài nớ hưởng lộc suốt đời.
Nàng cúi đầu:
– Đa tạ Hoàng thượng!
Rồi Minh Mệnh sai người mang ngự tửu ban cho nàng. Ngài nâng ly, nói:
– Rượu này ngâm thuốc quý đấy. Chỉ có nàng ta mới ban. Nhấp đi rồi dạy bảo cung nữ cho ta. Bọn này có đến vài trăm mà mỗi người một nết. Phải công phu lắm mới đưa vào khuôn phép được.
– Đa tạ Hoàng thượng!
Nói rồi nàng nâng rượu lên môi, nhưng chưa nhấp vội, đưa mắt nhìn sang vua Nguyễn như nhìn một pho tượng được tạc một cách cầu kỳ. Khuôn mặt Ngài loáng bóng như phết sáp ong, và tấm thân “Tích thượng đoản hạ”, thiếu cân đối nhưng thừa tráng lực và có phần hơi thô. Nàng nghĩ: Đây chắc là loại rượu ngâm thuốc mà người ta vẫn nói về tác dụng của nó tới mức “Nhất dạ lực giao sinh… ngũ tử” do một danh y dâng lên tiến Ngài. Hèn gì mà nhà vua có tới trên một trăm người con!
***
Thấm thoắt đã ba năm.
Công việc hàng ngày nơi cung cấm của nàng là dạy cho đám cung nữ học lấy dăm ba chữ thánh hiền để họ giữ đạo phi tần đối với đức vua, nhất là mỗi khi Ngài đoái thương đến. Còn không thì quanh năm, suốt tháng “Gối loan tuyết cóng, chăn cù(1) giá đông”, dù có tốn công phấn son trang điểm đến đâu cũng bằng thừa. Còn việc cai quản họ thì đã có thị giả(2). Nàng vừa soạn sách, vừa dạy chữ. Công việc phải nói là nhàn nhã, nhưng buồn tẻ. Hơn nữa, do lây cái buồn của người cung nữ, nạn nhân của sự lãng quên, đành chịu bỏ phí cả một thời xuân sắc, khiến nàng càng thêm ủ dột, nỗi lòng tê tái, bâng khuâng.
Chiều nay, lúc dạo gót trên đỉnh Bàn Sơn, nàng thả tầm mắt nhìn cảnh làng xóm hai bên bờ Hương Giang mà cồn cào nỗi nhớ nhà, nhớ chồng và ngán cho thân phận mình nơi đất khách. Nàng buông một tiếng thở dài.
– Chị lại nhớ ông Huyện ở ngoài nớ rồi – Thiều Hoa đứng cạnh đấy, nói.
– Vợ chồng xa nhau, ai mà không nhớ. Từ khi chúng mình làm bạn với nhau, anh ấy thụ chức ở Thanh Quan, quanh năm bộn bề công việc. Còn mình thì vào đây, thành ra quan san cách trở, những mong sớm tới ngày đoàn tụ.
– Chị có thơ tả nỗi nhớ nhà không, đọc cho em nghe với?
– Ừ nhỉ. Giữa buổi hoàng hôn nơi xứ lạ, cảnh vật như đang chìm trong tàn úa, mà bóng người thì khuất nẻo dần. Chỉ còn lại ta, một kẻ xa nhà, cô liêu, sao ta không có vài câu cảm khái.
Rồi vừa nhìn cảnh vật xung quanh, nàng vừa đọc:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ ở chương đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.
– Thật là tuyệt! – Thiều Hoa thốt lên, rồi hỏi: Nhưng chị chỉ dành cho ông Huyện có hai câu trong số tám câu là cớ làm sao?
– Hai câu, nhưng đó là phần kết em ạ. Còn sáu câu kia chỉ là cái nền. Giữa cảnh chiều hôm nơi thôn dã, mọi thứ như đang thu nhỏ lại, còn nỗi nhớ của mình thì cứ đầy mãi lên như con nước triều ngoài phá kia. Giá như cánh nhạn mà mang được thì ta gửi nỗi nhớ này đến người ở nơi xa cùng chia sẻ.
Mấy ngày nay Huế đổ mưa dầm. Những giọt nước gõ nhè nhẹ đều đều trên mái hiên như một điệu nhạc buồn lê thê, khiến nàng trằn trọc không ngủ được. Kinh thành đang trong ngày lễ tứ tuần đại khánh nhà vua, trong và ngoài Hoàng cung lộng lẫy cờ xí. Ban ngày thì có đủ các trò chơi như hát tuồng, múa rối, tấu nhạc, leo dây. Ban đêm thì đốt pháo bông, múa hoa đăng, các nhà đều treo đèn kết hoa, trên sông Hương có thả đèn xanh, đỏ… Cảnh đó càng gợi cho nàng nhớ về Thăng Long xưa trong những ngày lễ tết.
Sáng nay ở điện Cần Chánh, trong lúc đang hào hứng, cảm xúc thăng hoa bởi văn võ bá quan, hoàng tử, hoàng thân đến dâng phẩm vật và chúc tụng, nhà vua liền ban ơn bằng cách viết tặng mọi người hai chữ đại tự “Phúc – Thọ” theo nghệ thuật thư họa. Viết xong, ngài đưa cho nàng xem và hỏi:
– Trẫm viết thế này được không?
Nàng trả lời:
– Tâu bệ hạ! Phúc tối hậu, Thọ tối trường.
Chợt nghe, Minh Mệnh chưa hiểu hết ý, tưởng là lời chúc của nàng. Nhưng khi nhìn kỹ lại chữ viết của mình, nhà vua gật đầu mỉm cười:
– Quả khanh có tài nhận xét. Thật đáng khen!
Chắc là nhà vua đã nhận ra chữ Phúc thì béo tròn mà chữ Thọ thì dài ngoẵng. Không biết Ngài có vì nàng “phê” một cách kín đáo như vậy mà phật ý, cho nàng là phạm thượng không?
Lại một hôm quanh chiếc sập gụ sơn son thếp vàng trong nhà học, Thiều Hoa, Dạ Ngân, Thu Cúc cùng các cung nữ ngồi ê a học bài. Nàng Hinh đang giảng Kinh Thi:
– Các em nghe đây! Học được Kinh Thi trong người thấy vui vẻ, khoan khoái, biết được điều phải trái, lẽ đời. Ở xa thì nhớ đạo vua tôi. Sách viết: “Viễn tri sự quân”. Ở gần thì thờ cha mẹ. Sách viết: “Nhi tri sự phụ”. Lại biết được cả các loài muông thú, cây cỏ, cả loài đom đóm trong đêm. Sách viết: “Đa thức ư điểu thú, thảo mộc tri oanh”.
Trong lúc nàng say sưa giảng giải thì đức vua đi qua, vô tình đến chữ “Viễn tri sự quân” thì Ngài dừng lại lắng nghe và thầm nghĩ: “Người đàn bà này ngoài vẻ đoan trang, kiều diễm, nàng còn thông thái, mẫn tuệ, làu thuộc tứ thư, ngũ kinh, hơn hẳn bọn nữ nhi tầm thường chỉ lấy cái nhan sắc để quyến rũ người đời, còn tâm hồn thì trống rỗng. Tiếc rằng nàng đã có chồng. Ta dẫu có mấy trăm cung phi, vẫn ước được như Thành đế Nhà Hán, có một nàng Triệu Phi Yến, hoặc giả cũng mong được như vua xứ núi(3) mặc áo vải, đi giày cỏ, nhưng có được nàng Ngọc Hân sớm tối đàm đạo văn bài, lại còn can dự triều chính…”. Nhưng đến câu “Thảo mộc tri oanh” thì ngài sa sầm nét mặt. Lặng đi một lúc rồi Ngài phẩy mạnh tay áo thụng, đi nhanh về điện Thái Hòa, vẻ mặt hằm hằm, miệng lẩm bẩm: “Thảo mộc tri oanh…”. Lại câu đối đề tranh năm trước “Rửa chân mà động cả trời sao”. Thật quá lắm! Cái tính đa nghi trong Ngài như một hòn than âm ỉ vừa như có gió thổi bùng lên. Mà không nghi sao được, khi tin tức về cuộc nổi loạn của dân phu Bắc Hà do Phan Bá Vành cầm đầu luôn báo về. Bọn nho sĩ bất mãn ngoài nớ cũng hùa theo, khiến quan quân triều đình phải cất công khó nhọc mà vẫn chưa dẹp yên được.
– Thái giám! – Ngài gọi.
– Dạ!
– Triệu ngay Cung trung giáo tập Nguyễn Thị Hinh đến đây cho ta.
Nàng bước vào, cúi lạy:
– Thần thiếp xin bái kiến.
Minh Mệnh hỏi ngay:
– Khanh dạy cung nữ đến đâu rồi?
– Bẩm, thần thiếp đang giảng Kinh Thi ạ.
– Hừ! Kinh Thi hàng vạn chữ, thiếu gì chỗ giảng mà khanh giảng “Điểu thú tri oanh”. Vậy là có ý gì?
– Muôn tâu Hoàng thượng! Đã là sách thánh hiền thì việc dạy cũng như việc học chỗ nào cũng phải cho tường tận, đúng nghĩa. Theo Kinh Thi của Đức Khổng Tử biên soạn thì chữ “oanh” chính là loài đom đóm vậy. Thần không dám giảng sai. Ngoài ra, không có ý gì ạ.
Minh Mệnh đập tay xuống sập rồng:
– Bao biện! Nhà ngươi hẳn cũng đã biết tiên vương ta, Đức Thế tổ Gia Long đã bao phen lận đận, nếm mật nằm gai, chui rúc chốn sình lầy, nuôi chí diệt giặc Tây Sơn trong suốt mấy năm trời mới dựng nên cơ nghiệp, lẽ nào lại chỉ lập lòe như con đom đóm? Ta biết bọn nho sĩ các ngươi ở ngoài nớ vẫn còn thương tiếc Nhà Lê, chưa hẳn một lòng với triều Nguyễn ta. Như thế là không thức thời. Có kẻ còn nói tiên vương ta dựa vào người Tây “Cõng rắn cắn gà nhà”. Tất cả đều ngu xuẩn! Đã là bậc đại trí, khi cần đạt cho được mục đích lớn lao thì dựa vào cái gì mà không được?
Nàng Hinh điềm nhiên trả lời:
– Những điều đó là do bệ hạ nói ra. Còn thần thiếp chỉ biết làm tròn phận sự của người giáo tập mà bệ hạ giao phó.
Mấy ngày sau thì nàng có chiếu bãi nhiệm, về quê. Số bạc vua ban vừa đủ chi tiêu dọc đường. Khi thì đi cáng, khi thì đi bộ, ròng rã mười ngày thì nàng đặt chân lên đất Bắc Thành. Đến phường Báo Thiên, nàng nghỉ tạm dưới gốc sấu bên đường. Mệt, nhưng nàng cảm thấy phấn chấn như chim về cành cũ. Tay vén vạt áo mớ ba, nàng lấy ra chiếc gương nhỏ lên soi và nhận ra khuôn mặt mình xạm nắng, hõm mắt hơi quầng. Nhưng cả khuôn dung không chút trang điểm vẫn nhẹ nhõm, lại cân xứng bởi đôi gò má đỏ căng và hai nét mày như vẽ.
Thèm trầu, nàng lần xà tích, mở hộp đựng ra, nhưng trầu đã hết. Mới có hơn ba năm mà Thăng Long biết bao thay đổi. Cảnh cũ, người xưa hầu như vắng bóng. Đập vào mắt nàng là cảnh tiêu sơ, hoang phế, nhưng dấu tích thì vẫn trơ trơ như muốn thi gan cùng năm tháng.
Qua trước điện Trung Hòa trống hoang, đá tường lớp lớp rêu phong, nàng dừng chân trước đài Khán Xuân cạnh chùa Trấn Võ. Nơi đây, khi vào cái tuổi tóc còn để bím, nàng đã một lần theo cha đi xem Bắc Bình vương Nguyễn Huệ sóng kiệu cùng Công chúa Ngọc Hân trong ngày lễ thành hôn, rợp trời trống rong cờ mở. Nay cỏ mọc lút đường, khán đài nham nhở không người sửa sang. Trong lòng nàng dâng lên một nỗi u hoài. Nàng không chủ định làm thơ mà lời thơ cứ văng vẳng:
” Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời…”.
Đến chùa Trấn Bắc, một ngôi chùa cổ nằm khuất trong lùm cây ở phía Bắc kinh thành xưa, ngay bên bờ Hồ Tây, tuy đã gần nhà, nhưng nàng chưa vội về ngay mà rẽ vào chùa. Mấy bà, mấy chị người làng Nghi Tàm, vào lúc nông nhàn đã mang thúng, mẹt ra trước cổng chùa bày trầu nước ra bán, thấy nàng thì reo lên:
– Kìa, bà Huyện đã về! Chị em chúng tôi mong mãi.
Đúng là “Đi ngày đàng thấy người làng thì sáng mắt ra”, nàng hớn hở:
– Chào bà! Chào chị! Sao không mang hoa, mang lụa ra bán mà lại bán những thứ này?
– Hoa đang cuối vụ. Còn lụa thì có còn người mua như trước nữa đâu, cái thời vương công, hoàng tử dập dìu ấy. À, mà xin mời bà Huyện xơi trầu, xơi nước rồi hãy vào chùa thắp hương. Hôm nay là ngày rằm mà.
Nàng đưa tay đón cặp trầu quế rồi chụm miệng vừa nhai vừa hỏi chuyện quê nhà. Đoạn nàng bước vào ngắm cảnh chùa. Bỗng nàng cảm thấy nôn nao nhớ tiếc một cái gì đó không nói được ra lời.
Đứng trước tấm bia lớn với những dòng chữ lờ mờ, nhòe nhoẹt, nàng lấy khăn lau lớp bụi bám trên mặt đá rồi đọc và biết rằng, chùa này dựng từ thời vua Trần Thái Tôn. Chùa không thờ phật mà thờ vị thần có tên là Huyền Thiên Trấn Bắc. Tương truyền, các thầy phong thủy ta đã tâu với vua là thành Thăng Long xung yếu về mặt Bắc, dễ bị bọn giặc phương ấy tấn công nên nhà vua cho lập đàn thỉnh cầu một vị thần mà theo đạo thần tiên, vị thần đó trấn giữ phương Bắc trên thiên đình xuống để giữ yên mặt đó. Vì thế mà đất nước suốt mấy trăm năm không bị bọn giặc Bắc phương xâm phạm. Đời Hậu Lê, các Chúa Trịnh mở mang, tu bổ lại chùa khang trang, bề thế. Thời chúa Trịnh Sâm đã cho dựng ở đây một hành cung lộng lẫy để thỉnh thoảng đến đó di dưỡng tinh thần.
Hai mươi năm qua, Thăng Long không còn là kinh đô nước Việt nữa thì chùa chỉ còn là nơi hương khói, cầu kinh niệm phật của giới tu hành. Hành cung xiêu vẹo, xung quanh rầu rầu những đám cỏ hoang. Những dải mây chiều vắt ngang phía trời Tây in hình ngũ sắc xuống mặt hồ, hòa lẫn vào những cánh sen đung đưa trên mặt nước. Nhìn cảnh ấy, lòng nàng lại trào lên nỗi nhớ. Vẫn nơi này năm trước, nàng cùng các nho sinh đàn anh như Văn Siêu, Văn Lý và cả Lưu Nghi, lúc đó đang để ý đến nàng, thầm yêu trộm nhớ, vẫn thường đến đây vãn cảnh chùa, xem Nhà Chúa ngự giá đi thuyền hái sen. Trên bờ, phường bát âm cử nhạc. Tiếng sáo, tiếng sênh réo rắt lay động cả mặt hồ…. Mà nay, thế sự đổi thay quá đỗi, nào khác chi “cảnh hý trường”. Quá khứ như sóng lừng xô tới. Nàng thấy sợ, không dám tần ngần đứng lâu, sợ nỗi lòng bi lụy, sắc mặt u sầu khiến mọi người xung quanh nhầm tưởng là nàng vì thất sủng với đức vua, phải bãi nhiệm về quê nên buồn. Nàng bước vội ra khỏi cửa chùa. Vừa lúc ấy thì có mấy chàng trai thư sinh đi qua nhìn nàng một lúc rồi lên tiếng:
– Chào bà Huyện! Lâu lắm hôm nay chúng em mới lại được gặp. Bà Huyện vừa vãn cảnh trong chùa ra hẳn có thơ? Xin bà chị đọc cho chúng em nghe với!
Nàng bỏ miếng bã trầu, đưa hai ngón tay vuốt hai bên khóe môi, lấy lại sự niềm nở, nói:
– Có đấy. Nhưng là thơ ứng khẩu thôi nhé. Chưa gọt rũa gì đâu. Các cậu nghe thì chị đọc.
Cả bọn vỗ tay. Nàng cất giọng đọc từng câu:
“Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Khách qua đường để chạnh lòng đau
Mấy dò sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng, coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?
Nàng dứng lại, đôi mắt nhấp nháy, hóm hỉnh:
– Còn câu cuối, chị nhờ các cậu!
Trong chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ vẫn đều đều, vô tình và buồn chán. Một cậu đọc luôn câu tám:
“Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu”
Nàng và cánh học trò cùng cười: “Hơi gượng, nhưng tạm được!”. Rồi họ bảo nàng đọc lại từng câu để chép lấy rồi truyền tụng cho người khác.
Rời chùa Trấn Bắc, nàng về thăm nhà mình ở Nghi Tàm và hôm sau thì xuôi quê chồng ở làng Nguyệt Áng, cái làng quê chiêm trũng đói nghèo, nhưng mãi mãi quyến rũ nàng. Bởi nơi đây từng nở rộ những danh nhân văn tài khoa bảng.
Chồng nàng cũng vừa bị giáng chức Tri huyện Thanh Quan về làm một Viên ngoại lang. Nàng băn khoăn, thấp thỏm. Không lẽ chỉ vì hai câu lục bát nôm na ấy mà để lụy đến chàng? Hôm ấy, trước khi nàng vào Phú Xuân, chồng nàng đi vắng, cái người đàn bà tên là Thị Đào ấy đến xin quan cho đi lấy chồng khác, vì chồng chị ta bỏ đi đã mấy năm, không ngó ngàng gì đến. Nhìn thị hai má tươi hồng, đôi mắt lúng liếng, sắc xuân như tràn cả ra ngoài, chị ta lại khéo miệng van xin kèo nhèo mãi: “Quan ông đi vắng thì xin quan bà hãy thương em mà phê cho em mấy chữ cho danh chính ngôn thuận để em còn… Chứ bắt em phải chờ đợi cái con người bội bạc ấy cho đến chết già hay sao?”. Nghe thị nói, trong nàng có một cái gì xao động. Chẳng lẽ vì ngại vài nét bút mà để phí hoài cả cái tuổi xuân xanh nõn nà thế kia? Không suy nghĩ nhiều, nàng bảo: “Thị Đào! Đưa đây ta phê cho rồi mà về”.
Không ngờ hai năm sau, khi nàng đang làm giáo tập ở Hoàng cung thì người chồng Thị Đào trở lại. Hắn không những giàu có, lại đã lấy một người vợ khác. Thấy Tri huyện Thanh Quan xử cho người vợ cũ đi lấy chồng khi hắn vắng nhà, hắn liền kiện lên quan trên với khoản lót lớn. Vậy là tình ngay, lý gian, chồng nàng vì nghèo, lại vốn thanh liêm nên thua kiện và bị bãi chức.
Hôm gặp nhau, vợ chồng xiết bao nỗi tủi, mừng. Trong bữa tiệc đoàn viên vợ chồng cùng bè bạn, ông Lưu Nghi đứng lên nâng cao ly rượu, cất giọng:
– “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm/ Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon(4)“. Phải thế không, các bạn?
Mọi người có mặt đều vỗ tay: “Đúng! Đúng!”.
Từ đây không còn cái cảnh “Kẻ ở chương đài người lữ thứ” nữa. Họ sống bên nhau trong cảnh điền viên vui thú cho đến cuối đời. Nhưng riêng nàng vẫn không nguôi một nỗi buồn nhớ tiếc. Nàng lấy bút viết bài “Thăng Long hoài cổ” mà nàng thuộc từ lúc nào lên vuông lụa rồi đem treo lên vách. Hồn thơ đặc quánh lại trong nỗi nhớ về nền cũ, lối xưa. Thời gian có gột trải, lớp sóng phế hưng có tàn phá đến mấy thì hình ảnh Thăng Long xưa vẫn khắc đậm trong tim người nữ sĩ.
“… Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường…”.
Nhiều người ở Bắc Thành đã thuộc bài này. Họ viết lên giấy vàng điều dán ở nhà. Gần một trăm năm sau, những Việt kiều ở Pháp đã thấy bài thơ này trưng bày trong khu Văn hóa Á Đông của một viện bảo tàng ở Pa ri, dưới đề tác giả: Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ viết bằng chữ La tinh trong một cuốn sổ tay của một viên tướng Pháp bị tử trận khi đem quân ra đánh thành Hà Nội. Cuốn sổ đó đã được đưa về Pháp.
N.A.Đ
——————
(1). Chăn cù: Chăn dệt bằng lông thú