Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt…
Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước người nhạc sĩ vĩ đại.
Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt…
Một buổi tối mùa đông năm 1766, trong ngôi nhà gõ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bà bá tước Tun – một ông lão mù – đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gãy. Khi cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi thì con chó đực xích trong chuồng lại gầm gừ khe khẽ. Cũng như chủ mình, nó đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.
Mấy năm về trước người đầu bếp già bị mù vì hơi nóng của bếp lò. Từ ấy, viên quản lý của bà bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài lon flôrin.
Ông lão ở với con là Maria, một cô gái độ tuổi mười tám. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế dài khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một cái dương cầm kiểu cổ – tài sản độc nhất của Maria.
Cái dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có tiếng động vang lên ở chung quanh là những dây đàn lại rung lên khe khẽ hồi lâu. Người đầu bếp gọi đùa cái dương cầm là “anh gác của nhà ta”. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy già yếu.
Khi Maria đã làm xong việc lau mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo sạch lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô:
– Cha không hề ưa bọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm cha được trong sạch.
– Vậy phải làm thế nào thưa cha? – Maria lo lắng hỏi.
– Con hãy ra đường, – ông lão nói, – và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.
– Phố nhà thì vắng tanh… – Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.
Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở cánh cổng sắt gỉ và dừng lại. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.
Maria đợi hồi lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng cảm thấy có một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại, hỏi:
– Ai vậy?
Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.
– Được rồi, – người đàn ông bình thản nói. – Mặc dù tôi không phải là thầy tu, nhưng không sao. Ta đi thôi.
Họ bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa ướt xuống ghế. Chàng ăn vận tao nhã và giản dị – ánh nến lấp lánh trên chiếc camiđôn(1) màu đen, trên khuy pha lê và cổ áo thêu ren.
Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu hệt như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.
– Xin cụ cứ nói ! – Chàng bảo. – Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự đã cho tôi, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.
– Tôi làm việc suốt đời cho tới khi bị mù, – ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. – Và ai làm việc người đó không có thời giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao – vợ tôi tên là Mácta – thầy thuốc kê đơn cho nàng nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và vả khô, uống rượu vang hâm nóng, vì vậy tôi đã lấy trộm trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi đem bán. Bây giờ tôi rất khổ tâm khi nhớ lại việc này, và phải giấu con gái tôi: tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.
– Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân bị vạ lây vì vụ đó không? – Người lạ mặt hỏi.
– Thưa ngài, tôi xin thề là không có ai cả. – Ông lão trả lời và khóc. – Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi đã chẳng lấy trộm !
– Tên cụ là gì? – Người lạ mặt hỏi.
– Iôhan Mâye, thưa ngài.
– Vậy thì thưa cụ Iôhan Mâye ! – Người lạ mặt nói và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão, – trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.
– Amen ! – Ông lão nói khẽ.
– Amen ! – Người lạ mặt nhắc lại. – Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.
– Tôi muốn có người sẽ săn sóc Maria.
– Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không?
Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói lớn:
– Tôi muốn một lần nữa được nhìn thấy Mácta như buổi đầu tôi gặp nàng lúc còn trẻ. Nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.
– Được, – người lạ mặt nói và đứng dậy. – Được, – chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. – Được – lần thứ ba chàng nói lớn và bất thần tiếng đàn vút lên vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn.
– Cụ hãy nghe đây, – người lạ mặt nói. – Cụ hãy nghe và hãy nhìn đây.
Chàng bắt đầu chơi. Về sau Maria nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một sắc tái kỳ lạ phủ lên trán chàng và có một ngọn nến lung lay trong đôi mắt chợt tối đi của chàng.
Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.
– Tôi thấy rồi, thưa ngài ! – Ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy. – Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và nàng vì ngượng ngùng đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, ở trên núi. Bầu trời trong xanh như thủy tinh, và Mácta cười. Nàng cười, – ông lão nhắc lại, tai lắng nghe tiếng róc rách của cung đàn.
Người lạ mặt chơi đàn, mắt nhìn vào cửa sổ tối om.
– Còn bây giờ, – chàng hỏi, – cụ có nhìn thấy gì không?
Ông lão im lặng nghe ngóng.
– Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư? – Người lạ mặt nói nhanh và vẫn tiếp tục chơi. – Đêm đang đen bỗng thành màu xanh thẫm rồi lại thành xanh lam, và ánh sáng ấm áp đã từ nơi nào trên cây cao kia chiếu xuống. Hoa trắng đang nở trên cành cây già cỗi trong vườn nhà cụ. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không: tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ướt đẫm nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi, và trên thành Viên cổ kính của chúng ta từng đàn chim đang bay về phương bắc.
– Tôi trông thấy tất cả những cái đó ! – Ông lão kêu lên.
Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà cả hàng trăm giọng hát vui mừng.
– Không, thưa ngài, – Maria nói với người lạ mặt, – hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo nở rộ trong một đêm.
– Vâng, – người lạ mặt trả lời, – đó là hoa táo nhưng cánh của chúng rất to.
– Mở cửa sổ ra, Maria ! – Ông lão bảo.
Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.
Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chắn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi. Chàng ngồi lặng trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi tiếng nhạc của chính mình.
Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói:
– Tôi đã thấy tất cả, rõ như hồi trước đây. Nhưng tôi không muốn chết đi mà không được biết… tên. Tên ngài !
– Tôi là Vônfgăng Amêđây Môza, – người lạ mặt trả lời.
Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước người nhạc sĩ vĩ đại.
Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.
Paustovsky