Ngoài khơi miền đất hứa – Tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thân .

6

 

– Cậu uống gì? – Thảo hỏi.

– Một tách đen.

– Màu đi.

– Một tách đen – Tuấn đáp.

– Hêrô nhé?

– Cũng được.

Lan Hương, cô cháu gái bà chủ quán, nhạt nhẽo như cái tên, bưng cà phê và đĩa thuốc lá đặt lên bàn. Giờ này vắng khách vì người ta đang ở vườn hoa hoặc trong rạp hát.

– Tao định đi đãi vàng – Tuấn nói. Mặt anh rắn đanh. ý nghĩ này nung nấu trong anh từ lâu.

– Điên à?

– Không điên đâu, Thảo. Tao sẽ đi đãi vàng. Tìm ra thằng chó má kia là tao đi.

– Bỏ lại hết à?

– Hết.

– Chi thì sao?

– Đó là đời tao, tao không bỏ được.

Anh ngắm cốc cà phê đen nhánh, nổi váng vì có ít bơ. Anh biết mình nói đúng lòng mình. Nhưng anh đã nói vội vã. Anh sẽ để Chi lại thành phố. Sau khi anh đi, thành phố này đối với Chi sẽ trống rỗng, hoang vu. Anh để lại Chi với nỗi buồn và sự bất lực cho đến chết. Nhưng anh sẽ đi. Anh ngắm khuôn mặt rạng rỡ của Thảo. Nó là tấm gương của tình bạn. Mỗi lần nhìn vào mắt Thảo, anh lấy lại được niềm tin. Anh vững tâm hơn, đỡ chống chếnh hơn. Nhưng Thảo cũng chẳng giúp gì được cho mối tình này nếu anh ra đi. Thảo chỉ là nhân chứng cho một nỗi buồn. Chỉ có thế.

– Đừng dối mình. Cậu ra đi là hết. Cậu sẽ bỏ Chi – Thảo nói buồn.

– Cái gì rồi cũng phải chấm dứt. Nhưng tớ cũng chưa biết chấm dứt cuộc tình này như thế nào. Dù nó có chấm hết thì Chi vẫn là mãi mãi. Cậu có tin không, Thảo.

Thảo lảng tránh:

– Uống đi, Tuấn. Cà phê hôm nay khá lắm. Tớ gọi thêm một cốc nữa nhé.

Thảo gọi Hương bưng một cốc nữa lên. Thảo chia đôi cho hai người.

Tuấn đang nhớ lại mùa hè năm ngoái. Cánh rừng ven hồ. Những con gà lôi khản giọng, nhớ nhung. Một cánh buồm đỏ thắm trên mặt hồ. Tuấn hì hục hai ngày để sửa chiếc thuyền cũ nát thành một chiếc thuyền buồm có cánh buồm là một tấm ni lông màu đỏ. Chi và anh lênh đênh một buổi chiều, suýt nữa không cho thuyền quay về được vì gió thổi ngược vào bờ. Nhưng rồi mọi việc cũng êm xuôi. Một mùa hè không bao giờ quên được. Chuyến du lịch lén lút, mỗi người thuê một phòng vì không có giấy kết hôn. Đắng cay và ngọt bùi của trái cấm.

Thảo bâng khuâng trước cốc cà phê. Anh biết Tuấn sẽ đi. Đối với anh điều ấy ngang với việc lạc vào hoang mạc. Anh sẽ ra khỏi bằng cách nào đây.

Thảo cầm khối ru bích ai để quên trên bàn. Anh quay những khối vuông. Những khối vuông xanh, vàng, đỏ trắng rối thêm, tản mát thêm. Không có lời giải đáp. Cũng như anh không thể giải đáp nổi số phận của Tuấn, một số phận cay đắng mà anh đành thúc thủ, không thể xoay chuyển nó dễ dàng như đối với những nhân vật trong tiểu thuyết của anh.

Cái tay giám đốc xí nghiệp – Tuấn như quên hẳn ông ta mà chỉ gọi ông ta là Lý Thông – cái tay Lý Thông ấy không biết dùng mưu kế gì mà có thể lường gạt Tuấn, con người có trí tuệ gấp vài chục lần ông ta. Lừa gạt những ba lần. Mà Tuấn là ai? Một bộ não hiếm có, một kỹ sự trợ thủ, một người hết mình vì ông ta và xí nghiệp. Thảo không hiểu lắm về công việc của Tuấn. Nhưng cả ba lần anh đều chứng kiến cuộc lường gạt. Cả ba lần anh đều tưởng lầm là một trò đùa. Nhưng anh đã nhầm tệ hại.

Lần đầu tiên, cách đây khoảng ba năm. Lúc đó tay giám đốc chỉ mới là một công nhân bậc bốn. ở xí nghiệp, ông ta là một hạt thóc trong đống thóc. Lần đó, Tuấn đi họp toàn ngành ở Hà Nội về. Một chuyên viên ở bộ nọ đến dự trình bày về tình trạng chảy dầu trong cánh tuyếc bin của nhà máy thủy điện X. Một nhà máy kiểu cũ, không tìm được gioăng thay thế. Hàng chục cây số dọc theo sông Lim nổi váng dầu nhờn, bị ô nhiễm. Cá anh vũ chết hàng loạt. Những hậu quả khác khôn lường. Phải chế tạo được những bộ gioăng thay thế. Đây là lĩnh vực đòi hỏi nhiều bộ, nhiều ngành tham gia.

May mắn là những vấn đề kỹ thuật của việc chế tạo đó đã được Tuấn quan tâm từ lâu vì một mục đích khác. Từ lâu anh muốn làm ra một chất liệu làm kín có thể chịu được nhiệt, dầu nhờn, a-xít và ma sát lớn. Anh đã mon men đến gần đích cuối cùng thì bỏ dở. Tuấn lặng lẽ suy nghĩ và nhờ sự nhiệt tình của giám đốc (ông ta đã chết năm bốn mươi chín tuổi, những người tốt thường chết trẻ chăng) anh được giao lập một tổ công tác gồm ba người. Anh, một kỹ sư hóa dẻo và ông Lý Thông, lúc đó chỉ là một công nhân bậc bốn. Phải đưa ông ta vào vì dù sao cũng cần người làm những việc cụ thể cho phòng thí nghiệm. Thế là người ta cử Lý Thông đến cho anh. Tuấn và Vịnh, anh kỹ sư hóa dẻo lên Hà Nội, vào trường Bách khoa và Viện khoa học tranh thủ sự giúp đỡ của các bạn và các thầy, mày mò công thức. Trong khi hai người ngồi uống trà và chuyện gẫu về thân phận của trí thức thì Lý Thông pha trộn, thao tác, cán ép, xử lý… Những tấm gioăng ra đời. Họ đưa lên nhà máy thủy điện. May mắn, giám đốc nhà máy là một cậu bạn cũ của Tuấn. Anh đồng ý cho ngừng máy (không thông qua hội đồng khoa học của Bộ, ưu tiên cho bạn bè mà!) để thử thay gioăng mới. Hai tháng, rồi ba tháng trôi qua. Những tấm gioăng làm việc rất hoàn hảo, vượt xa yêu cầu khiêm tốn đề ra lúc đầu. Một sự kiện lớn. Bộ chủ quản thở phào. Địa phương vùng có nhà máy thoát được nạn ô nhiễm vì dầu rò rỉ. Váng dầu không còn trôi nổi trên dòng sông thơ mộng trong xanh, cá anh vũ trở về, nhà máy mỗi tháng tiết kiệm được hàng tấn dầu hiếm.

Như người lạc lần thấy đường ra, người ta đề nghị hoàn chỉnh phương pháp và quy trình công nghệ, lập xưởng sản xuất hàng loạt thứ vật liệu đó để dùng lâu dài cho các nhà máy thủy điện. Và những sản phẩm hóa khác.

Theo bài bản truyền thống, người ta tổ chức hội nghị tổng kết, hội nghị chuyên đề, khen thưởng… Bước rẽ ngoặt bắt đầu từ đây. Tuấn và Vịnh bàn nhau “Đây không phải là việc chính của chúng mình. Sa vào là hết đời. Làm thì khó nhưng báo cáo thì dễ. Để Lý Thông đi báo cáo!”. Suốt một tuần lễ, Tuấn nhồi nhét vào đầu người công nhân bậc bốn những công thức, lý luận, giải thích… Anh bảo: “Cậu báo cáo là đúng. Cũng những chuyện này nhưng bọn mình nói thì người ta vặn vẹo đủ điều, có trót lọt thì cũng chẳng ai thí cho bao nhiêu tiền thưởng. Cậu là công nhân, người ta sẽ chiếu cố cậu. Chắc chắn cậu sẽ còn đi xa!”. Thế đấy, khoa học cũng cần lý lịch cơ bản tốt.

Quá trình nhào nặn huyền bí bắt đầu diễn ra. Người ta in ảnh Lý Thông lên báo. Xuất hiện vài bài báo mô tả quá trình sáng tạo của người công nhân. Tuấn đọc những bài đó, mỉm cười. Anh không thể nhận ra là người ta đang viết về công việc của nhóm nữa. Theo các nhà báo thì hình như người thợ, dù học vấn ít ỏi, nếu có lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội thì họ sẽ chiếm lĩnh được tri thức khoa học mà chẳng mất công mài đũng quần hàng năm, thậm chí hàng chục năm trên ghế nhà trường và những học viện! Lý Thông được phong nhiều danh hiệu đến nỗi anh ta khó mà nhớ hết. Rồi được rút đi học một lớp đại học chuyên tu vào thời kỳ mà các giáo viên hướng dẫn muốn cho học trò tốt nghiệp đi cho rồi để rảnh nợ mà có thì giờ kiếm sống. Xí nghiệp được đổi tên, chuyển nhiệm vụ. Lý Thông được cử đi học trường Đảng vì đã có bằng kỹ sư chuyên tu. Và ông được đề bạt lên phó giám đốc vì đã tốt nghiệp trường Đảng. Ông lên giám đốc vì đã từng là phó giám đốc. Có lẽ ông sẽ lên một chức gì nữa trên giám đốc nữa vì ông đã là giám đốc.

Đã quen tưởng rằng chính mình là tác giả duy nhất của sáng kiến làm gioăng, ông giám đốc bắt đầu dùng quyền lực của mình để khai thác các kỹ sư trong xí nghiệp. Ba lần Tuấn được ông cử làm chủ nhiệm đề tài cải tiến hay sản xuất một mặt hàng nào đó, ba lần ông đều biến những sáng kiến này thành của tập thể xí nghiệp. Khi chúng là của xí nghiệp rồi, với kinh nghiệm và nghệ thuật báo cáo sẵn có, với những cách thức hoàn hảo ông biến chúng thành sở hữu của chính ông một cách dễ dàng.

Chuyện đó diễn ra từ bao giờ, theo một quy trình như thế nào, không ai hiểu nổi. Mà cũng không có cách gì hiểu nổi. Đó là một phản ứng hóa học bí mật trong những ống nghiệm kín như bưng mà ta thường gọi là cơ chế cũ. Tuấn hiểu phép mầu đó qua câu chuyện những cái gioăng. Anh được lĩnh một số tiền thưởng còm nhom, lui về phòng thí nghiệm, từ chối dự những cuộc họp, cuộc bình bầu, thậm chí cả những chuyến tham quan, du lịch, Tuấn lại miệt mài với những dự án mới.

Nhưng ba sáng kiến đã thành công kia thì sao? Ông giám đốc được lên ba bậc lương, được hứa hẹn cấp thêm vốn, đổi một căn hộ mặt đường và nhiều triển vọng khác. Để đảm bảo cho tất cả những bước phát triển đó là ông có một cái lý lịch đẹp, chưa nói một câu nào phạm thượng với cấp trên vì ông ít khi nói. Và chưa bao giờ người ta thấy ông làm việc sai trái vì ông không tự mình làm gì cả. Ông ngồi, làm đầy đủ những gì có trong quy phạm và chỉ thị. Như một anh câu cá rành nghề, ông chỉ việc chộp cho vào cái giỏ của ông những con cá to, ông có ưu điểm hơn người ở chỗ còn để cá nhỏ cho người khác nhặt. Vậy thì ông, con người quyết án binh bất động để tồn tại và thăng tiến, sao ông lại phải tháo dỡ cái này cái nọ ra để làm gì? Ba cái sáng kiến cấp nhà nước, tập thể đã được thưởng rồi, trên đã chú ý đến ông rồi, tờ báo tỉnh cũng đã hết lời ca ngợi, ông không xếp nó lại cho yên còn bới ra làm quái gì nữa. Xếp, xếp. Tội gì mua rét mà run.

Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, mặt Tuấn tái lại vì giận. Anh cũng tự hỏi xem ý nghĩ của anh về cái ông Lý Thông kia có quá đáng hay không. Có chăng cũng chỉ vì xúc động thái quá. Sự xúc động của chàng Thạch Sanh khi bị đẩy xuống giếng sâu, ôi nhân loại, xin hãy lượng tình cho sự giận dữ của chàng, người ngay bị đẩy xuống giếng sâu.

Tuấn đã giận dữ, đã đập bàn đập ghế với giám đốc vì ba cái sáng kiến của anh đã bị sang tên (một cách bí ẩn và nhẹ nhàng), anh không thèm chấp điều đó. Nhưng vì sao nó lại bị xếp xó, không thực hiện? Đối với người sáng chế, đó là sự xỉ nhục.

Tuấn đã bị đẩy xuống giếng sâu. Khi miệt mài với đề tài mới, anh đã không lượng được sức mình, đề ra một mục tiêu khó vượt nổi. Anh thất bại hoàn toàn. Không may, một vụ cháy nhỏ xẩy ra. Anh đánh hơi thấy người ta đang bày những cái bẫy, những sợi dây thòng lọng bí ẩn quanh mình. Để tránh một vụ kỷ luật nhục nhã, Tuấn đặt lên bàn giám đốc một tờ đơn xin thôi việc. Đáng lẽ anh có thể xin chuyển đi nơi khác. Nhưng anh không chờ đợi được thủ tục rề rà. Anh muốn thoát cho nhanh. Anh lại còn muốn chứng minh là mình có thể tồn tại mà không cần lệ thuộc, luồn cúi. Vì anh tin ở phát minh mới của mình. Nó có phạm vi ứng dụng rộng rãi. Anh bất cần mọi thứ. Chỉ cần thành công. Thành công là có tất cả. Sẽ có ngày vì chính quyền lợi của xí nghiệp và bản thân mình, ông giám đốc sẽ sụp lạy dưới chân anh, người tìm tòi những hợp chất mới. Nếu không, anh sẽ lập tổ hợp, hay bán nó cho một tổ hợp, một xí nghiệp khác. Anh sẽ sống vì nó, nhờ nó. Nhưng một tai vạ lớn đã sập lên đầu anh giữa lúc anh đang sống say đắm trong mối tình đang chín và những tìm tòi gian khổ của anh đến chặng cuối cùng.

Bây giờ Tuấn tính chuyện đi tìm vàng. Vàng, anh vẫn nghĩ nó cũng hiếm hoi như hạnh phúc. Không ai đi đãi vàng mà sung sướng cả, cũng như hạnh phúc, không ai đi tìm mà gặp nó cả.

– Uống đi -Thảo giục – nhà triệu phú không tưởng, nhà bác học lãng mạn.

– Không lãng mạn chút nào, – Tuấn nói.

Thảo lặng người đi vì nhớ là chưa bao giờ khuyên can được Tuấn điều gì.

– ở trong tù có một tay đãi vàng bị nhốt về tội làm vàng cốm giả – Mặt Tuấn có bóng đen thoáng qua. Chẳng ai thích khoe với người khác những kỷ niệm tù đày – Nó buồn tình dạy tớ nghề đãi vàng. Vàng có khắp nơi. Lưu vực sông Mã, những con suối chân Trường Sơn miền Trung. Cả ngoại thành Hà Nội nữa. Làm nghề này không khó. Miễn là dám vứt hết quá khứ, dí cái quá khứ vớ vẩn và mộng mị xuống chân rồi ngẩng đầu lên mà đi.

– Nhưng cậu thì việc gì phải làm thế? Cậu sẽ được minh oan.

– Tớ hiểu tớ là đủ. Người đàn ông hơn người đàn bà ở chỗ nó đánh giá được bản thân mình. Tớ cần vàng. Nguồn gốc mọi thất bại của tớ là do tớ trắng tay. Tớ định vá trời bằng hai bàn tay ăn mày.

– Cậu không nghĩ tới Chi ư? – Thảo hỏi.

– Chỉ còn chừng đó thôi. Nhưng phải cứu vớt cuộc đời trước khi cứu vớt tình yêu. Nếu mình chỉ là miếng giẻ rách thì Chi cũng chẳng còn, tình yêu của Chi cũng chẳng còn. Mình đang không xứng đáng với tình yêu của Chi.

Tuấn uống cạn một hơi chỗ cà phê còn lại rồi đứng dậy. Thảo biết là mình không thể trở lại chuyện này nữa. ít nhất là lúc này.

Phố xá sáng rỡ đèn. Đã bắt đầu cuộc chơi đêm, cuộc lêu lổng ban đêm vô tận của dòng người giàu có, sang trọng. Tuấn thấy nhớ những đêm chiến tranh. Cả thành phố tất bật. Những người lao động nuối tiếc từng giờ, tranh thủ từng giờ cho nhà máy nhả khói, bến tàu được giải tỏa. Cái thành phố chăm chỉ, cần cù, siêng năng và tiết kiệm của anh đã mất. Bây giờ người lao động nghèo đang nuốt vội bữa cơm dưới ánh đèn dầu rồi gằn hắt nhau, toan tính với nhau, chửi rủa nhau để chen một chỗ tồn tại cho hết ngày mai, để vá víu tháng lương rách nát với lo toan, ám ảnh bởi sự bấp bênh của đời người. Bây giờ người giàu ra phố lêu lổng, ăn chơi. Đồng tiền quay vòng cùng bánh xe cúp với tốc độ chóng mặt. Tốc độ của cuộc tranh giành trong pháp luật và ngoài vòng pháp luật. Những cô gái con ông cháu cha, con chủ hiệu cà phê, quán ăn đặc sản, chủ thầu mua bán sắt vụn mặc áo pun Thái Lan và quần bò Mỹ, mới tập sự son phấn, bỏ học vào đầu năm lớp sáu, ra đường ban đêm để khoe quần áo, để được tán tỉnh, được theo đuổi, được ve vuốt, được làm tình ở chân tường, góc phố – trường bắn của tuổi thanh tân, tóm lại, học đời sống hiện đại. Lớp cha anh trưởng thành trong chiến tranh và cuộc tính lũy vô hạn độ. Thế hệ Tuấn trưởng thành trên đường phố đã dứt khói lửa. Trong cảnh thất nghiệp một phần ba, một nửa và toàn phần. Lứa tuổi này cũng đã bắt đầu cuộc đấu trí và đấu lực không khoan nhượng với tốc độ kinh người nhằm giật lấy miếng ăn trong tay người khác, có thể người đó là hàng xóm, là đồng chí, bạn bè hay em ruột mình. Tuấn đang nhìn thấy một thành phố phân rã. Giàu và nghèo. Kẻ lương thiện và kẻ bất lương. Cuộc đấu muôn thuở là cuộc đấu. Cái thành phố bốc lửa trong đêm dưới khói bom vàng da cam hay đen kịt, cái thành phố ấy đã lùi vào sương mù quá khứ để nhường chỗ cho những đường phố không luật lệ, không kỷ cương, người ta có thể chửi tục vào mặt anh, giật cái kính đeo mắt của anh hay đạp vào anh để bước lên trước.

Tuấn thấy đau thắt ngực. Trước mặt anh và Thảo là một cuộc sống anh không chờ đợi, không mong ước. Giấc mơ của anh khác kia, khác rất nhiều. Tuổi ba mươi, ba lăm, bọn anh chỉ là hạt nhân của buổi ban đầu. Sau bọn anh là một cái đuôi sao chổi, ngày một phình ra, một to ra, cái sao chổi thời hiện đại đang lao vun vút như lên cơn sốt vào vực thẳm suy đồi đạo đức, tình thương. Lười biếng, đòi hỏi, bị khinh miệt và khinh miệt trở lại, được trả lương giả vờ và làm việc giả vờ, hèn nhát, cam chịu, danh dự, nhân phẩm đã được vứt khỏi hành trang cho nhẹ để tăng tốc tới mục đích nhiều khi chỉ là một bộ cánh có in chữ trên ngực: LOVE ME.

Là nhà văn nhưng Huy Thảo có những ý nghĩ nhẹ nhõm hơn. Anh không chú ý nhiều đến đường phố. Anh chưa được học bài học vỡ lòng về cuộc sống trần trụi như Tuấn đã học tám tháng qua trong tù. Chỉ có cảm giác sắp sửa phải mất Tuấn làm anh đau đớn. Cơn ác mộng đãi vàng bóp chặt tim anh giữa đường phố lên đèn.

– Tuấn, tại sao cậu lại không thể sống như mọi người? – anh hỏi Tuấn, cố lấy cái vai gầy mảnh đụng vào vai Tuấn như đánh thức anh dậy, thoát khỏi những ý nghĩ và cảm xúc đang giày vò anh.

– Sao cậu không hỏi vì sao mọi người lại không sống như tớ?

Thảo không trả lời. Anh không trả lời được. Anh chỉ còn nhớ lại những gì đã qua, may ra lý giải được những cảm xúc hỗn độn của mình.

Nhưng họ đã bước vào con đường tối. Phố nhà hôm nay mất điện.

NQT

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder