NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC (1) – Ghi chép của Lê Xuân Tường

VHP:  Mời bạn đọc theo dõi bản ghi chép NGƯỢC DÒNG KÍ ỨC  sẽ đăng hai số một tuần để cùng cảm nhận một cách chân thực nhất về chiến tranh. VHP không cắt bớt các chi tiết với hi vọng biết đâu có bạn lại tìm được tung tích của một người thân mà mấy chục năm qua không biết sống hay đã chết ở nơi đâu, như trường hợp một tiểu đoàn lính sinh viên hi sinh ở giữa miền rừng rú đầm lầy rồi bị bỏ quên mấy chục năm, chỉ có một ngôi miếu nhỏ của nông dân bản địa thờ các anh “THÀNH HOÀNG ĐỘI MŨ CỐI” với tên gọi là MIẾU BẮC BỎ (thờ những người bộ đội miền Bắc bỏ mạng và cũng bị bỏ quên) – Truyện này VHP mới đăng nửa tháng trước đây…

VHP  Có rất nhiều nhà văn viết hồi kí về thời kì chiến tranh chống Mĩ, rất nhiều tác phẩm đã được công bố, tạo thành một biên niên sử không thể nào quên. Nhưng cuộc sống dần đổi thay, việc viết về chiến tranh cũng chìm dần nhường chỗ cho các vấn đề mới cần được phổ cập hơn. Tuy nhiên khi đọc lại những dòng ghi chép của một cựu chiến binh, một anh lính – sinh viên (trường Đại học Xây dựng) cách đây hơn 40 năm mới thấy rằng còn biết bao câu chuyện gọi là “đời thường người lính” làm xúc động lòng người.
Mời bạn đọc theo dõi bản ghi chép NGƯỢC DÒNG KÍ ỨC  sẽ đăng hai số một tuần để cùng cảm nhận một cách chân thực nhất về chiến tranh. VHP không cắt bớt các chi tiết với hi vọng biết đâu có bạn lại tìm được tung tích của một người thân mà mấy chục năm qua không biết sống hay đã chết ở nơi đâu, như trường hợp một tiểu đoàn lính sinh viên hi sinh ở giữa miền rừng rú đầm lầy rồi bị bỏ quên mấy chục năm, chỉ có một ngôi miếu nhỏ của nông dân bản địa thờ các anh “THÀNH HOÀNG ĐỘI MŨ CỐI” với tên gọi là MIẾU BẮC BỎ (thờ những người miền Bắc bỏ mạng và cũng bị bỏ quên) – Truyện này VHP mới đăng nửa tháng trước đây.

NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC (1)

Ngày 27/5/1972 những sinh viên Đại học xây dựng (ĐHXD) chúng tôi bước sang một cuộc đời mới – cuộc đời của những người lính. Xe của trường chở chúng tôi rời khu C tại chợ Yên, xã Tiền Phong, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú qua Thường Lệ, Mê Linh, Thanh Tước ra Quốc lộ 2 và ngược về phía Vĩnh Yên. Qua cầu Bình Xuyên chúng tôi rẽ tay trái vài ba cây số đến xã Đạo Đức thuộc huyện Bình Xuyên, chúng tôi xuống xe. Không hiểu hôm đó giao quân kiểu gì mà tốp chúng tôi từ khu C cứ vất vưởng vì chưa được giao quân, cơm nước không có mà ăn, lăn lóc hết quán nước này đến bụi tre kia ngồi tránh nắng. Bụng đói mà chợ búa ở đây lèo tèo chẳng có gì để ăn.
Mãi tới xế chiều mới giao quân, tôi được đưa vào một nhà dân để nghỉ, ở đây đã có một vài anh em dến từ hôm trước. Sinh viên của ĐHXD ở Hương Canh cũng đã giao nhận từ hôm trước. Nhà tôi ở có anh Oanh K12C (cầu đường), Khoa râu K13C, Tú trường công nhân máy kéo và tôi. Tôi được biên chế vào A3/B1/C1/D60/F304B. Đây là một đơn vị huấn luyện quân tăng cường đóng ở Phú Bình, Bắc Thái. Tiểu đội trưởng của tôi tên là Sơn, vóc người chắc đậm quê Nghệ An. Sơn nhập ngũ trước chúng tôi, đợt tháng 12/1971 từ trường trung cấp mỏ địa chất. Tiểu đội phó là anh Nguyễn Trần Được K13C. Tiểu đội tôi có 12 người: Sơn A trưởng, anh Được A phó, anh Tuệ K12X, anh Châu K12 Cảng (chính là người đăng bài hôm nay), anh Oanh K12C, Mỹ 13X, Khoa 13C, anh Ba giáo viên khoa Thông gió, Mẫn 15C, Tú và Xứng cùng ở trường công nhân máy kéo và tôi.

Ở Đạo Đức hai hôm chúng tôi nhận quân trang gồm một bộ quần áo dài bằng vải Nam Định, hai bộ đồ lót, một cái màn xô xanh, một đôi dép đúc Trung Quốc và một tấm vải nhựa che mưa, những gì còn lại như ba-lô, mũ cứng về đơn vị sẽ phát tiếp. Buổi chiều ngày thứ hai cả đơn vị xúng xính trong trang phục mới tập trung tại sân kho của hợp tác xã để nhận cờ tiểu đoàn Bùi Ngọc Dương do Ban giám hiệu trao tặng và rời Đạo Đức hành quân ra ga Hương Canh để lên tầu.

Cái đêm hành quân ra ga Hương Canh để đợi tầu lên Thái Nguyên thật là ấn tượng. Cứ một thằng lính là có đến bốn năm người đi tiễn. Hương Canh là nơi trường ĐHXD đóng (bao gồm hiệu bộ và các khóa từ 12 cho đến 13 và một số lớp của khóa 14 của các khoa, còn từ 14 đến 16 vẫn ở khu C Chợ Yên). Cả trường ra tiễn và không ít người từ khu C đạp xe lên. Còn phải kể tới các trường Trung cấp Mỏ – Địa chất và trường Công nhân Máy kéo gần đó, người ở lại ra tiễn người ra đi. Những anh em ở trường Đại học Tài chính ở Phúc Yên, rổi trường Đại học Công nghiệp nhẹ ở Việt Trì chắc ở xa quá nên không có mặt trong số những người đi tiễn đêm đó. Thật là một cảnh tượng không thể nào quên trước khi lên đường. Mấy đứa chúng tôi ở khu C không có bạn bè ra tiễn nên rúc vào một chỗ hút thuốc vặt chờ lúc tầu và trông đồ cho hội Hương Canh tản mát khắp nơi. Cách chỗ chúng tôi không xa bên hàng cây ven đường sắt những đôi bạn yêu nhau quyến luyến chia tay nhau trong những tiếng nấc nghẹn ngào bị át đi bởi tiếng gọi tìm nhau ơi ới. Tôi được phân công đeo một cái nồi, đã không ít người bị dính nhọ nồi trong khi chen vai thích cánh để tìm bạn. Không biết cái ga xép Hương Canh đó đã bao giờ được chứng kiến cảnh người đi người ở đông khủng khiếp như đêm hôm ấy chưa.

Nửa đêm, chúng tôi lên tầu, dưới ánh trăng hạ tuần qua cửa sổ của con tầu những cánh tay chìa ra tạm biệt và có thể vĩnh biệt lắm chứ thì có hàng ngàn cánh tay bên dưới lưu luyến vẫy theo, không ít những cô gái nhoai theo đoàn tầu đưa người yêu đi, bạn bè phải ghìm giữ lại. Tôi không có một người bạn nào trong số đó, nhưng trong lòng mình cũng xốn xang nao lòng trước cảnh chia ly như thế. Tầu đang chuyển bánh từ từ bỗng khựng lại không biết vì sao mãi một lúc mới lại chạy. Sau này mới biết B. học lớp 14CH yêu B. lớp 12C. Được tin người yêu lên tầu ở Hương Canh quá muộn, cô ta mượn một cái xe đạp đạp từ khu C trong đêm lên Hương Canh để gặp người yêu, không ngờ tầu đã chuyển bánh, cô sinh viên  lao ra đường sắt giang tay ngăn đoàn tầu lại để gặp B. Sức mạnh tình yêu thật là phi thường khiến cho cô gái đã can đảm đến thế.

Sáng sớm tầu dừng ở ga Phổ Yên sau một đêm chạy như rùa bò. Cả tiểu đoàn bắt đầu hành quân bộ. Một tiểu đoàn phải đến 600 quân bắt đầu chặng đi bộ dưới cái nắng tháng năm khủng khiếp. Không mũ nên đủ kiểu che nắng: người dùng khăn mặt quấn lên đầu, người dùng cành lá che nắng, kẻ tạt xuống bên đường ngắt lá khoai nước hoặc một lá sen phủ lên đầu, còn tôi nhặt được một cái nón rách ở hàng rào bên đường để có cái đội chống nắng. Ba-lô chưa có quân trang chỉ có mỗi cái màn và một bộ đồ trên người nên cũng đơn giản: lấy vải nhựa bọc tư trang cá nhân lại và kiếm sợi dây buộc lại đeo toòng teng trên người. Còn tôi được phân công mang một cái nồi quân dụng nên tư trang cho hết vào nồi đậy vung lại dùng dây cột chặt nắp nồi  và buộc dây vào hai quai nồi để đeo trên lưng, cũng tiện. Đầu tiên đội hình hành quân hàng một được khoảng cây số thì bắt đầu loạc choạc mạnh ai nấy đi, mệt thì ngồi nghỉ. Cán bộ khung chạy ngược chạy xuôi đôn đốc cũng chẳng ăn thua, lính tráng lết bết trên đường dưới trời nắng như thiêu. Ngẫm lại quang cảnh cuộc hành quân hôm ấy có lẽ chẳng ai nghĩ rằng đó là một đội quân ngoài bộ quân phục trên người. Cũng còn may được cấp dép đúc để đi nếu không với những dép nhựa lê mang đi thì không thể đi mấy chục cây số như vậy.

Con đường từ Phổ Yên sang Phú Bình là vùng bán sơn địa với những quả đồi thấp, nhiều đồi trồng thông, bạch đàn trông rất đẹp. Xóm làng hai bên đường thưa thớt. Buổi trưa chúng tôi nghỉ tại một xóm nhỏ bên sông Cầu để nấu ăn. Bữa cơm dã ngoại đầu tiên của đời lính được triển khai tại nhà dân theo từng tiểu đội. Ăn xong chúng tôi nằm vật dưới bụi tre để nghỉ trưa, thỉnh thoảng vài ngọn gió hiếm hoi từ sông xua đi oi nồng làm dịu bớt cái mệt mỏi đầu tiên trong đời lính.

Đang chìm trong giấc ngủ mê mệt thì tiếng còi tập hợp rúc lên. Ông Viên B trưởng (trung đội trưởng) phổ biến chuẩn bị vượt sông. Ông ấy cho biết: đây cũng là một nội dung huấn luyện cho nên mọi người được cấp một miếng vải mưa vừa che mưa vừa để gói tư trang làm phao vượt sông. À ra như vậy, khi nhận quân trang có miếng vải mưa ai cũng cho là thừa vì ba-lô thì chưa có mà đã cấp vải mưa trong khi trời tháng năm nắng như đổ lửa.

Sơn hỏi: “Trong tiểu đội những ai không biết bơi?”, tôi và anh Được đứng ra ngoài hàng. Sơn hướng dẫn cách gói phao bơi và cho tôi cùng anh Được bơi ở giữa, cả tiểu đội sẽ bơi xung quanh để kèm. Nước sông Cầu đoạn này trong vắt chảy rất êm đềm. Thì thụp trong dòng nước và mấy lần chìm nghỉm nhưng nhờ có đám phao của tiểu đội và nhất là anh Tuệ kèm sát nên lại ngoi lên được. Lên tới bờ, mệt nhoài vì căng thẳng nhưng thấy sảng khoái vì từ hôm nhập ngũ đến hôm nay mới có trận tắm thoái mái như thế này.

Chúng tôi lại hành quân tiếp, cứ như thế mạnh ai nấy đi không theo một hàng lối nào cả. Mệt quá nếu gặp chỗ có bóng mát thì nằm vật xuống để lấy lại sức. Hết những dãy đồi thông, bạch đàn là những cánh đồng lúa đang vụ gặt. Đặc biệt là hệ thống mương máng sông đào chằng chịt với những âu thuyền, cửa cống bằng đá hộc, chứng tỏ công trình thủy lợi này đã có từ rất lâu. Anh Châu lớp 12 Cảng là dân thủy lợi cho biết đây chính là hệ thống thủy lợi được xây dựng dưới thời Pháp thuộc mà một trong tác giả của công trình này là Hoàng thân Xu-pha-nu-vông.

Chiều tà chúng tôi rời bờ kênh rẽ trái hướng về dẫy đồi thông. Quán nước dưới gốc cây đa cổ thụ bóng mát của nó che phủ một khoảng rất rộng, đứng đây tầm mắt mở tới rất xa với những cánh đồng lúa và những dòng kênh thẳng tắp. Chúng tôi ngồi nghỉ uống nước, bà cụ bán nước múc cho chúng tôi những bát chè xanh và nói: “Các chú sắp đến rồi đó, hết dãy đồi thông trước mặt là đến nơi”. Đây là xã Tân Đức thuộc huyện Phú Bình, Bắc Thái. Phía trước mặt là đất Tân Yên, Hà Bắc.

Hơn ba chục năm sau, trong dịp về Nhã Nam viếng mẹ của Hiền” phệ” mấy đứa chúng tôi tranh thủ lên Tân Đưc để thăm lại chốn xưa. Cây đa vẫn còn đó nhưng dưới gốc đa đã là một phố thị sầm uất với nhiều cửa hàng từ quán bia, ăn nhậu tới quán làm đầu, bán hàng tạp hóa, xưởng sửa chữa máy nông nghiệp, rồi sứa chữa TV, thậm chí có cả quán karaoke với thấp thoáng bóng những cô gái mắt xanh mỏ đỏ. Cái gọi là văn minh đô thị đã đổ bộ về một vùng đất hẻo lánh xưa kia, nơi lưu lại trong lòng chúng tôi một khoảng không gian êm đềm để chuẩn bị bước vào một cuộc chiến ác liệt với nhiều người không bao giờ trở về.

Chúng tôi qua một đồi thông, dưới chân đồi là mấy dãy nhà lợp nứa đó là C2 (đại đôi 2), ở C này là số anh em K16, một số K13 và giáo viên của trường, ngoài ra còn có anh em của các trường khác.

Đi tiếp hơn một cây số chúng tôi đến nơi đóng quân, đây thuộc xóm Quẫn của xã Tân Đức, trước mặt là một hồ nước, cả đại đội gồm mấy dãy nhà lợp nứa: một dãy của C bộ, một đãy là nhà bếp và hội trường kiêm nhà ăn còn bốn dãy còn lại là của bốn B. Tất cả quay vào một sân chung chung quanh là đồi trọc chỉ có những đám cỏ thanh hao và cỏ guột khô xác.

Dãy nhà của các B chắc vừa làm xong mới chỉ có khung nhà, cửa giả chưa có, giường chiếu cũng không. Đêm đầu tiên chúng tôi phải trải vải mưa thay chiếu để ngủ sau một ngày hành quân qua hơn 40 cây số để về đơn vị.

Sáng hôm sau cả đơn vị bắt tay vào đào giao thông hào phòng khi bị ném bom, một số được cử làm sạp ngủ. Tôi thuộc nhóm đào công sự. Đất đồi rắn đanh chỉ có xẻng con bộ binh nên việc đào hào rất vất vả. Chưa bao giờ phải như thế này, hai bàn tay phỏng rộp tứa máu. Những anh em xuất phát từ nhà nông với công việc này không quá khó khăn với họ, còn những người như tôi quả là vượt quá khả năng của mình. Hết cán bộ C rồi B đến gần nhìn chúng tôi nhưng chỉ biết lắc đầu.

Ba ngày thì đoạn hào nông choèn đến đầu gối rồi cũng xong nếu như không có sự trợ giúp của anh em khác. Sạp ngủ cũng xong, rồi được phát tiếp quân trang: mũ cối Trung quốc, ba-lô Trung quốc (chính là cái ba-lô hiện nay tôi còn giữ), một bộ quần áo bằng vải Hung nặng chịch, hai người một cái chiếu.

Đầu tiên tôi nằm cạnh Khoa râu, người nó lông lá phát khiếp, khi ngủ lông chân nó cọ xát vào người tôi không thể chịu được. Đùn đẩy mãi tôi được nằm chung màn với anh Tuệ. Vì sạp không đủ cho mỗi người một chiếu nên phải ngủ ghép. Cạnh tôi là anh Được nằm chung màn với thằng Khoa râu.

Đơn vị đóng quân ngay bên một hồ nước, chiều nào lính tráng cũng thì thụp tắm giặt ở hồ nước này. Doanh trại cách mấy xóm nhà dân chừng ba, bốn trăm mét. Buổi trưa hay sau giờ sinh hoạt buổi tối chúng tôi thường trốn trại vào trong dân làm điếu thuốc hay ấm trà.

Lần trở lại sau này như đã nói ở trên, xe chúng tôi phải đỗ ở vạt đồi bạch đàn ngày xưa nơi tập bắn súng và làm bếp Hoàng Cầm vì không đi tiếp được. Chúng tôi dừng chân đầu xóm bên hồ. Cái hồ ngày xưa trông khá lớn giờ hình như nhỏ lại và được trồng rất nhiều sen. Mấy cụ già thấy chúng tôi chỉ chỉ trỏ hỏi:

– Các chú có phải là bộ đội ông Bát không?
– Sao cụ lại biết?
– Ở cái xóm heo hút này nếu như có người lạ vào đây chỉ có bộ đội ngày xưa vào thăm cảnh cũ thôi.

Cụ chỉ cho tôi khu đất doanh trại cũ ngày xưa, các đơn vị trước đó đều đóng trong nhà dân đến đợt chúng tôi thì ra ở doang trại. Chính tay cụ và một số người trong xóm đã dựng lên những doanh trại này.

Ông Bát là chính trị viên tiểu đoàn chúng tôi, còn ông Trần Ba người miền Nam là tiểu đoàn trưởng. Khung huấn luyện của chúng tôi thuộc F304B (sư đoàn 304B) của Quân khu Việt Bắc (QKVB), mỗi đợt huấn luyện 15 tiểu đoàn. Trước đó khung D45 (tiểu đoàn 45) đi đợt 12/1971 gồm các trường Bưu điện Truyền thanh, Tài chính, Sư phạm 2, Sư phạm Việt Bắc. Đợt chúng tôi thì lấy bí danh là D60.

Những gì của cuộc đời một tân binh chắc mọi người đã trải qua và thấu hiểu. Cái đáng nhớ nhất là việc rèn các chế độ nội vụ: mọi sự phải thật nghiêm túc, bài bản hệt như nhau từ những việc rất nhỏ. Đây là điều khó thích ứng nhất vì sinh viên vốn đã quen tự do rồi.

Tôi là một thằng hay cãi và nhiều khi phản ứng bột phát nên hay để lại cho cán bộ khung những ấn tượng không hay. Ví dụ đi lấy củi về tiểu đội nào xếp riêng tiểu đội ấy để đánh giá nhận xét. Tôi thường chọn một cây tương đối để vác cho dễ, về nhà để bên cạnh những bó củi bó gọn ghẽ rất chuyên nghiệp, củi của mình bị phê bình vì không được như người khác nhất là câu cửa miệng của cán bộ khung “Người khác làm được tại sao đồng chí không làm được như họ”. Tôi phản ứng “Bảo đi lấy củi miễn là có củi về đun là được, các ông có quy định phải như thế nào không?”. Đại loại những chuyện va vấp như vậy. Những lúc như thế, anh Tuệ lại rỉ rả với tôi “Em không hề sai, nhưng họ cũng có lý của họ vì thứ nhất họ có quyền nói và thứ hai họ còn bị cấp trên hạch nữa. Cần kiên nhẫn một chút và cái quan trọng nhất là làm gì cũng phải lưu ý đừng để người ta có cớ bắt bẻ mình…”

Anh Tuệ có dáng người cao rất thể thao nhà ở Giáp Lục, Thanh Trì, Hà Nội. Anh hay kể chuyện về bà mẹ – một bà giáo trường làng – mặc dù các con đã khôn lớn nhưng bà luôn luôn theo dõi từng bước đi của các con. Tôi đã được anh Tuệ đọc cho nghe những đoạn thư bà gửi cho anh. Những dòng thư rất nồng ấm của một người mẹ vẫn coi con trai đã lớn như những đứa học trò nhỏ của mình. Mà quả thực dưới con mắt của các bà mẹ thì chúng ta lúc nào cũng là những đứa trẻ to đầu chưa có trí khôn.

Anh Tuệ rất lo cho tôi và anh Được không biết bơi, nên ngày nào anh cũng bắt chúng tôi tập bơi. Nhưng có lẽ khoản này tôi lại là một kẻ vừa ngu vừa dốt, học mãi mà vẫn lóp ngóp theo kiểu bơi của họ nhà cẩu mà thôi.

Vào những lúc nhàn rỗi sau bữa cơm chiều hoặc trước giờ đi ngủ, mấy anh em tôi thêm cả anh Ngọc Châu thường ra vệ đồi nhìn xuống hồ nước hát những bài ca quen thuộc của thời sinh viên. Anh Châu là người Hải Phòng học lớp 12 Cảng, trước đây là công nhân được đi học, khi đi bộ đội anh mang theo cây ghi-ta. Anh chơi đàn hay lắm lại thêm giọng ca của anh Tuệ làm cho những phút mệt nhọc sau một ngày tập luyện vất vả dường như tan biến đi. Dần dần cứ những lúc rỗi rãi không cứ mấy người chúng tôi mà nhiều anh em ở các trung đội (B) khác cũng tụ lại đàn hát. Chắc các bạn biết ngày ấy lứa sinh viên các trường kỹ thuật như Bách Khoa, Xây Dựng, Giao Thông … rất tài hoa nhất là các khoản hát hò và cả cưa gái thì cũng giỏi giang lắm. Trong số những con người ấy có B. mà có cô bạn gái dám ngăn tầu lại là một tay ắc-cóoc có hạng của trường Đại học Xây dựng, anh Châu là một trong những cây ghi-ta cự phách ở trường, rồi một loạt những giọng ca nổi tiếng của trường như MC, PC, Th. của trường nữa. Chả thế một lần đoàn tuyên văn của sư đoàn về biểu diễn cho tiểu đoàn các tiết mục của đoàn đã bị mờ nhạt trước những tiết mục của các tân binh là  sinh viên. Về sau này khi ông Th. về C17/E95/F325, sau Hiệp định Paris được kéo lên Ban tuyên huấn của sư đoàn 325 phụ trách đội văn nghệ khá nổi tiếng ở khu vực Quảng Trị.

Phong trào hát hò của lính tráng đã làm cho ban chỉ huy đai đội (C bộ) phải bố trí một buổi truyền thanh vào buổi tối trước khi đi ngủ bằng cái đài Lido. Sau bản tin mà nhạc hiệu là bản nhạc “Quê em miền trung du” là chương trình ca nhạc thôi thì đủ các bài hát của thời sinh viên, nhất là những bài ca của những người lính Xô-viết trong những năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại như Kachiusa, Thời thanh niên sôi nổi, Cuộc sống ơi ta mến yêu người, Tình Bạn, Giờ này anh ở đâu … đã được hát lên và những bài hát đó đã cùng chúng tôi ra trận.

Anh Tuệ có một bài tủ là Qui sera! Sera và một trích đoạn trong vở nhạc kịch Masa, mỗi khi anh hát với giọng buồn buồn đầy tâm trạng tôi cũng chắc anh có một tâm sự nào đó. Với tôi anh coi như một đứa em ngang ngạnh. Anh hay kể cho tôi một số câu chuyện bằng những câu dẫn chứng mang tính triết lý đại loại như “Nếu như không tránh được những cuộc chiến đấu thì hãy chiến thắng bằng bất kỳ giá nào.” hoặc là “Trên những nẻo đường cuộc sống hành lý cần mang theo là lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng.”

Anh Châu lại là một con người rất nghệ sĩ với vẻ mặt lãng tử , gày gò  Cây đàn ghi-ta không lúc nào rời ngay cả lúc hành quân rèn luyện vác ba lô có  tảng đất nặng gần bốn chục cân trên lưng. Phải nói rằng tiếng đàn của anh rất điêu luyện nhưng giọng hát của anh thì thua số bạn khác. Anh nổi tiếng đại đội vì một lần được cử đi khiêng máy chiếu phim, anh lên thẳng C bộ mượn dây để khiêng máy. Ông C phó quát:

– Tại sao anh lại hỏi tôi, phải khắc phục chứ.
– Khắc phục là như thế nào, khác gì anh bắt chúng tôi giơ nắm đấm xông lên lô cốt địch đang nã đạn. Tại sao khi nhập ngũ các anh không phổ biến mang theo dây để khiêng máy.

Tức quá ông C phó lầm bầm :” Đúng là đồ dài lưng tốn vải, cậy nhiều chữ hay “ní nuận”…Đến nước này thì C phó phải chịu chỉ còn cách bắt anh Châu đứng nghiêm giữa sân cả buổi chiều vì không tuân lệnh lại còn cãi.

Cuối đợt huấn luyện chừng gần hai tháng thì anh Tuệ và anh Châu cùng một số anh em khác được về Bộ tư lệnh Hải quân. Trước khi đi anh Tuệ dặn dò tôi rất nhiều và có lẽ sau này ít nhiều tôi cũng có ảnh hưởng bởi cách sống của anh.

Anh Tuệ không còn nữa, sau chiến tranh tôi có tìm anh nhưng được biết quãng năm 1976, 1977 gì đó anh từ Hải Phòng phi xe máy về Hà Nội vì ngày hôm sau là ngày anh cưới vợ, đến cầu Lai Vu, đường xấu, đêm tối, trời lại rét anh đã ngã xuống một hố sâu trên đường và ra đi mãi mãi. Còn anh Châu tôi cũng bặt tin cho đến bây giờ.

Anh Ba có lẽ là người lớn tuổi nhất trong số các anh cùng nhập ngũ với chúng tôi. Năm ấy anh đã 32 tuổi tức là ở cái giới hạn của tuổi nhập ngũ. Anh là giáo viên khoa Thông gió đã có gia đình với hai cháu nhỏ. Nghe anh em các khóa trước là học sinh của anh nói về căn bệnh thấp khớp kinh niên của anh, mỗi khi bước vào mùa đông là đầu gối anh sưng tấy lên và chỉ có ngồi một chỗ. Thế mà không hiểu sao khi ở huấn luyện cứ quần quật suốt ngày hết lăn lê bò toài lại hành quân rèn, ngày Chủ nhật là đi lấy củi, lấy gạo. Nhiều lúc chúng tôi còn thấy mệt mỏi đau nhừ cả ngươì nhưng anh vẫn cố gắng rất nhiều. Tôi thường hỏi han anh có đau chân không để báo cho đơn vị nhưng anh trả lời “Tớ vẫn chịu được, chân không hề sưng”. Quả thực cũng không hiểu nữa, có lẽ cường độ lao động như vậy lại là một sự rèn luyện để xua đi mọi bệnh tật. Những buổi chiều khi chúng tôi ra dệ đồi hóng mát và hát hò thì anh ở trong nhà viết lách thư từ gì đó cho vợ con. Những người đã có gia đình bao giờ cũng thế, họ luôn để một khoảng lặng cho những người thân yêu của mình mà những thằng trẻ trai như tôi chưa thể hiểu được. Chục năm sau khi làm chuyên gia giáo dục tại Kampuchia tôi mới thấm thía sự xa cách vợ con nhất là khi chia tay đứa con đầu lòng mới có mấy ngày tuổi để khi trở về cháu đã hơn hai tuổi miệng bi bô gọi “Bố ơi!” nhưng dứt khoát không theo.

Khi chúng tôi lên đường đi B, anh Ba nằm trong số anh em được về Bộ tư lệnh thông tin. Sau này được biết anh về E134 thông tin đóng ở khu vực Láng. Một số anh em khác sau khi huấn luyện xong thông tin đã được tăng cường cho Quân khu 5 và Trung ương Cục tại B2.

Còn hai anh Oanh và Được ở cùng tôi cho tới khi đến Bãi Hà mới chia tay nhau. Anh Oanh quê ở Phủ Lý xã Châu Khê hay Châu Sơn gì đó đã lâu nên cũng bị lãng quên. Anh học K12C, người đen, nhỏ thó, ít nói nhưng lại hay tâm sự chuyện riêng tư với tôi. Người yêu anh cùng làng đang học trung cấp bưu điện tên là Tuyến. Hai anh chị dự định đến cuối năm sẽ tổ chức, nhưng mọi việc đã phải gác lại. Cùng một tổ ba người, đi đâu tôi và anh cũng đi với nhau suốt cả lúc huấn luyện cho tới khi hành quân vào Nam. Anh Oanh là người rất chịu khó và khéo tay nên những lúc phải làm những dụng cụ như đẽo lựu đạn, làm học cụ để huấn luyện. hay lúc bó củi rồi xâu vào đòn để gánh về đều có bàn tay anh giúp tôi. Tôi là một thằng rất vụng về, ăn no vác nặng nên rất lúng túng khi phải làm những gì đòi hỏi phải khéo léo may mà có anh. Khi ở nhà tuy là dân thành phố nhưng cả ngõ Tức Mạc của tôi đều phải dùng nước máy công cộng vì hồi ấy rất hiếm nhà có vòi nước riêng, chính vì thế ngay từ khi học lớp 5 tôi đã phải gánh nước về để nhà dùng. Những năm chiến tranh đi sơ tán ở nông thôn tôi cũng phải gánh nước cho cả nhà nên chuyện gánh nặng với tôi không là gì. Tôi gánh được cả hai vai và giở vai rất điệu nghệ mà không phải trai thành phố nào cũng làm được. Sau này khi đi gặt giúp dân ở Quảng Trị tôi chỉ nhận chân gánh lúa từ đồng về làng vì tập mãi mà không biết bó lúa hay đập lúa không biết hất sau khi đập xong. Các bạn ạ, tôi cứ nói thật, cái thằng như tôi như thế đấy.

(Còn tiếp)

L.X.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder