NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC kì 6 – Ghi chép của Lê Xuân Tường

Có một điều lạ cho đến bây giờ tôi chưa hiểu thực sự trận đánh hôm ấy. Được phổ biến là đi tập kích vì mang rất nhiều lựu đạn và thủ pháo để đánh hầm. Không biết có phải lạc đường hay không mà khi trinh sát đưa chúng tôi vào cũng chẳng cho biết đâu là hầm của địch để mà đánh rồi họ rút về, lúc đó đã gần sáng rồi chỉ còn cách trụ lại cho đến đêm…

Có một điều lạ cho đến bây giờ tôi chưa hiểu thực sự trận đánh hôm ấy. Được phổ biến là đi tập kích vì mang rất nhiều lựu đạn và thủ pháo để đánh hầm. Không biết có phải lạc đường hay không mà khi trinh sát đưa chúng tôi vào cũng chẳng cho biết đâu là hầm của địch để mà đánh rồi họ rút về, lúc đó đã gần sáng rồi chỉ còn cách trụ lại cho đến đêm.

Chuẩn bị vào trận

Sau hơn chục ngày ở hậu cứ kể từ khi vượt sông về đơn vị, một buổi chiều mưa tầm tã chúng tôi được lệnh ra bến sông để lấy đạn, nhưng lần này lại lấy toàn lựu đạn, những bánh thuốc nổ TNT, dây cháy chậm, ngòi nổ và nụ xòe cùng một số lượng đạn B40, B41. Sáng hôm sau anh Tạo và Phồm hướng dẫn cách kết nối những bánh TNT loại 200g và 400g thành những quả thủ pháo. Lệnh từ C bộ truyền xuống đêm nay sẽ đi tập kích địch tại khu vực An Tiêm, Chợ Sãi sau đó sẽ chốt lại. Ba anh em trong hầm hối hả chuẩn bị cho lần vào trận này. Bắc được ở lại trông hậu cứ, tiểu đội chỉ còn 4 người nhưng trang bị khá mạnh Lào giữ B40, Bình là khẩu trung liên RPK còn tôi và Phồm mang AK.

Theo lời khuyên của mấy người lính đơn vị bạn tôi gặp trong chốt khi đưa cơm, lần này vào chốt ngoài hai băng đạn buộc chéo nhau lắp sẵn ở súng tôi còn mang trên người yếm đựng đạn AK trước ngực. Tuy có nặng và nóng nhưng được cái dễ cơ động nhất là nó bảo vệ ngực cho mình khi bị đạn găm vào phía trước. Trước khi vào trận tôi tranh thủ tắm rửa thay bộ quần áo đang mặc trên người bằng bộ đã giặt sạch để trong ba-lô để khi có làm sao sẽ được mặc bộ quần áo sạch sẽ trên người. Đấy là một ý nghĩ lãng mạn lúc đó mà thôi vì chỉ trên đường vào chốt thôi thì người ngợm đã như trâu lầm toàn bùn đất. Thấy Phồm chỉ có hai băng đạn buộc chéo lắp vào súng như thế chỉ có 60 viên tôi hỏi “Có hai băng thôi à, nhỡ hết đạn thì lấy ở đâu”. Nó lầm bầm “Bắn làm sao hết được, ở đây chỉ dùng B40, B41 và lựu đạn thôi, mà đạn AK có đầy trong các hầm chốt”. Nghe Phồm nói cũng phải vì quan sát trận địa những đêm đi đưa cơm thì thấy ta và địch toàn bám vào các vật cản là những nhà đổ. Anh Tạo mang sang một bao cát toàn lựu đạn Mỹ chia cho mấy anh em. Cầm quả US trên tay, da láng bóng mầu xám tròn thu lu như quả ổi, mỏ vịt của nó cứng cáp và khoằm nên cài vào xanh-tuya-rông rất chắc chắn. Tôi lấy 5 quả mỏ vịt US và 4 quả lựu đạn tấn công của ta, trong ruột tượng đeo qua lưng cũng có 5 trái thủ pháo. Tôi cắt một đoạn dây võng làm lại quai cho cái bòng bằng túi bao cát để đeo trên lưng, trong đó có võng, vài bánh lương khô, cuốn nhật ký ghi chép suốt từ khi nhập ngũ đến giờ, cuốn sổ học tập của sinh viên mang đi từ trường để làm kỷ niệm.

Cơm đã nấu xong, mỗi thằng mang theo hai nắm đeo bên hông. Lĩnh thêm bông băng cá nhân để mang theo. Đeo tất cả vào người nhảy thử vài cái, lại chỉnh, lại buộc cho đến khi mọi thứ không còn phát ra tiếng kêu lạch cạch nữa. Theo anh em cũ thì nên đội mũ cối vì sẽ đỡ được vôi gạch nện vào đầu khi pháo nổ gần. Cái mũ giải phóng tôi nhét luôn vào bòng nhỡ khi mất mũ cối còn có cái mà thay thế. Đúng là tâm trạng vào trận đầu của lính mới : mang cái này đi, bỏ cái kia lại, không mang thì tiếc, mang lại nặng. Trong khi anh em cũ lại đơn giản ngoài vũ khí, trang bị chiến đấu, cơm nắm, lương khô, võng, vải mưa và chỉ thêm có điếu cày và thuốc lào. Thấy tôi có tới 5 băng AK (150 viên bao gồm hai băng buộc chéo nhau lắp vào súng, ba băng dự trữ ở yếm), Phồm bảo tôi bỏ bớt lại một băng ở yếm để mang theo điếu cày. Chiếc điếu cày được làm từ ống hỏa châu bằng nhôm, nõ điếu được khoét từ một tay tre, khi hút thì sìn sịt nhưng còn hơn là không có điếu để hút. Một số người tạo điếu từ hộp nhựa đựng thuốc sốt rét, cắm nõ ở trên nắp, lắp một vòi truyền huyết thanh để làm cần để hút. Loại này gọn nên có thể nhét được vào túi ngực. Phồm lưu ý chúng tôi khi dùng lựu đạn và thủ pháo của ta rất dễ bị lộ vì khi giật nụ xòe sẽ phát tiếng khá to cộng thêm tia lửa phụt ra của nụ xòe.

Trời vẫn mưa, chúng tôi tranh thủ ngủ để nửa đêm sẽ vào trận, anh Tạo sang ngủ bên hầm chúng tôi. Anh liên tục rít thuốc lào, khiến tôi cũng trằn trọc không ngủ được. Quê anh ở Phúc Yên, anh có một con trai chưa đầy năm. Chắc lúc này anh đang nhớ tới gia đình, vợ con. Những người có gia đình thường thường hay nặng lòng khi phải xa nhà để đi vào nơi trận mạc như thế này. Chợt anh quay sang tôi nói“Giờ này vợ con mình ở nhà chắc nghĩ rằng mình sướng lắm đấy nhỉ. !”. Tôi đang lơ mơ lầu bầu trả lời “Ông chỉ vớ vẩn, sướng cái nỗi gì. ông ngủ đi để cho chúng tôi ngủ với.”. Anh Tạo nằm xuống giọng nói như nghẹn đi “Những thằng chưa vợ như chúng mày là sướng nhất, không phải lo lắng gì.”. Trong giấc ngủ chập chờn đầy âu lo, trước khi vào trận đánh ai mà chẳng nghĩ, nghĩ về gia đình, về Mẹ, về những gì đang chờ đợi. còn cái chết ư tôi đã xác định ngay từ đêm vượt sông khi bị pháo địch chụp trên đầu và Chiến, Sơn đã lôi tôi lên bờ.

Vào lửa và nỗi đau

Nửa đêm cả đại đội tập trung ở sân C bộ dưới trời mưa to, mang tiếng đại đội nhưng chỉ là hai trung đội với khoảng mười lăm tay súng. Ông Nghĩ dẫn quân đi, ông Trọng và Trình ba toác ở nhà, cả Bắc điếc nữa. Bắc đơn vị không cho đi vì nó không nghe được tiếng pháo rít trên đầu, nhiều lần đi với nó tôi phải kéo nó nằm xuống để tránh những quả pháo nổ gần. Chính vì không nghe được mà nó đã hy sinh khi dính một mảnh pháo vào gáy lúc về gần đến hầm, trong một đêm đi tải gạo và đạn sau đó hơn một tháng.

Trinh sát dẫn chúng tôi ra đến lộ 4, vượt qua đống đổ nát của dẫy nhà ven đường nơi mấy cái xe thiết giáp bị cháy nhưng lần này không rẽ phải như những lần vào chốt đưa cơm mà chúng tôi cứ men theo lộ mà đi. Nước mưa táp vào mặt làm nhòe nhoẹt mắt kính nhưng vẫn bám được đội hình nhờ ánh sáng của hỏa châu địch, qua một khoảng ruộng lầy thụt đến một rặng tre tan hoang, cậu trinh sát ra hiệu chúng tôi dừng lại rồi biến về phía trước. Bốn chúng tôi cụm lại sau một gò mộ ngổn ngang những bia mộ xen lẫn các hố pháo, hố bom. Chỗ chúng tôi liên tục bị những quả cối cá nhân nã vào, nhìn những quả đạn đỏ lừ lướt qua đầu nổ phía sau, quả thì nổ phía trước, phía bên cạnh. Tôi lăn ngay vào một hố pháo gần đấy, hố sâu khoảng 50cm lại ngập nước, mỗi khi úp mặt để tránh thì coi như phải nín thở để khỏi sặc nước.

Chợt phát hiện bóng mấy người lố nhố ở đoạn hào gần đấy, tôi lao ngay xuống, Phồm, Bình và Lào đều ở đó. Đây là khu vực chốt của C6 thuộc D2, họ có các đường hào dẫn tới các hầm chốt khá hoàn chỉnh. Trong một ngách hào tôi thấy mấy bóng người nằm chồng chất lên nhau – đó là những anh em hy sinh đang chờ vận tải chuyển ra ngoài. Ngồi bệt dưới hào, bùn nước ngang bụng mấy anh em tranh thủ chợp mắt một lúc trong lúc chờ trinh sát dẫn đi tiếp. Một khoảng thời gian khá lâu chúng tôi bị dựng dậy để đi tiếp. Qua dãy chốt của C6 chúng tôi lom khom tiến về phía trước giữa các đống nhà đổ nát, chợt một loạt tiếng nổ liên tục, rất đanh rất gần chỗ chúng tôi, chùm đạn đỏ lừ sát trên đầu chúng tôi lao vào khu vực chốt của C6. Có một ổ đại liên của địch rất gần đây trong một căn nhà đổ nào đó. Một đường hào cạn (có thể là đường tăng) cắt ngang thấp hẳn xuống so với xung quanh tới gần một mét rộng đến gần năm chục mét chi chít hố pháo.

Chúng tôi qua khỏi con hào đó tới một khu vực xung quanh rất nhiều dẫy nhà dài đổ nát, cả đại đội nép dưới chân những đống gạch vụn khi được biết đã đến nơi. Hình như chúng tôi vào quá sâu thì phải vì căn cứ những luồng đạn đại liên cũng như tiếng nổ của M79 ở phía sau lưng chúng tôi. Anh Tạo đi hội ý với đại đội bò về chỗ chúng tôi “Các tiểu đội tản ra, tranh thủ đào công sự, trời sáng đến nơi rồi. Cố gắng trụ lại chờ lệnh mới. Làm một hơi thuốc rồi đi”. Tôi rút cái điếu cài ở yếm đạn đưa cho anh, mấy anh em chụm đầu trong một cái hố để hút thuốc, rất cẩn thận còn phải lấy vải mưa chùm lên cho khỏi phát sáng ra ngoài. Theo Phồm bò ra cách đấy chưa đầy hai chục mét thì một chớp đỏ kèm theo tiếng oành của M79. Một bóng người đang dẫy dụa xung quanh là khói đạn khét lẹt. Tôi và Phồm lao về phía đó. Trời ! Anh Tạo từ cổ đến ngực bị nát bét đầm đìa máu. Thường giữ chặt người anh, tay bịt lấy miệng không cho tiếng rên la phát ra vì địch đang ở rất gần ngay tại bên kia ngôi nhà đổ. Bàng hoàng nhìn anh ưỡn người và đuối dần, chúng tôi vuốt mắt cho anh, đặt anh dựa vào đống gạch vụn và lấy vải mưa phủ cho anh. “Anh Tạo ơi ! Em vẫn nhớ tới câu nói của anh đêm hôm trước khi anh không ngủ được nhớ tới gia đình. Phải chăng đó là một điềm báo trước.”.

Trời đã tạnh, chỗ chúng tôi nằm cạnh một vườn chuối xơ xác đổ ngổn ngang. Đào vội mấy cái hố cá nhân dưới chân đống đổ nát của ngôi nhà. Được cái đất ở đây mềm do mấy hôm mưa nên đào cũng dễ, tranh thủ lôi mấy cây chuối phủ lên làm nóc hầm. Mỗi hố cá nhân cách nhau khoảng 5,7 mét để hỗ trợ lẫn nhau. Trời sáng dần, tôi quan sát xung quanh nhận thấy chúng tôi đang nằm tại một khu trường học khá lớn bởi rất nhiều bàn ghế học sinh, bảng đen lẫn trong đống gạch vụn. Ngay sau lưng chúng tôi, nơi anh Tạo nằm là một dãy lớp học. Trước mặt, không xa lắm khoảng năm chục mét là một con sông nhỏ – sau này mới biết đây là sông Vĩnh Định chảy ra Thạch Hãn tại Chợ Sãi. Vườn chuối khá rộng chạy từ dãy lớp học cho tới sát bờ sông. Chếch về phía phải quãng độ 200 mét có một cây cầu sắt còn sót lại vài thanh dầm và lan can, có một nền đường khá cao chạy qua cầu dẫn tới một khu vực rất nhiều nhà cửa cây cối đổ nát.

Sau này tôi mới biết đây chính là cầu Sãi bắc qua sông Vĩnh Định trên trục đường 4 chạy từ QL1 chỗ cầu Ga bắc qua sông Thạch Hãn, qua Thị xã Quảng Trị để ra Cửa Việt. Con đường này chạy qua thôn Đầu Kênh như tôi đã nói ở đoạn trên. Hai đầu cầu sắt lố nhố những bóng áo rằn ri của địch. Mấy khối nhà đổ xung quanh vọng ra tiếng gọi nhau thậm chí có cả tiếng còi thổi toét … toét. Xung quanh toàn là địch và hình như chúng chưa phát hiện ra chúng tôi. Có tiếng gầm rú của xe tăng địch từ phía cầu vọng lại – chính vì thế càng khẳng địch đoạn hào cạn mà đêm qua chúng tôi vượt qua chính là đường cơ động của xe tăng địch. Có thể ở đây nằm sâu trong khu vực của địch nên hầu như không bị một quả pháo nào có chăng chỉ bị pháo của ta mà thôi, mà pháo của ta đâu có nhiều đạn để bắn.

Bỗng dưng hàng loạt cối M79 dồn dập nã vào đầu dãy lớp học, bị lộ rồi, tiếng đạn nổ chát chúa cùng mùi khói đạn khét lẹt. Từ sau những khối nhà đổ phía đường tăng khoảng hơn hai chục tên lính lom khom xông vào hướng của B2 cách chỗ chúng tôi khoảng bốn, năm chục mét. Hai quả B40 nổ trúng đám lính, số còn lại tản ra có mấy thằng hướng về phía tiểu đội tôi. Tim đập thình thịch, bụng thắt lại, hai tay run run vì lần đầu tiên trực diện nhìn thấy lính địch, tôi lẩy bẩy đưa khẩu AK hướng về phía thằng gần nhất, nòng súng cứ rung lên bần bật không thể nào ổn định được đầu ngắm. Nhìn sang bên chỗ Phồm, nó lom khom trong hố mồm cắn chặt quai mũ tai bèo, hai tay hai quả lựu đạn, trước mặt để mấy quả thủ pháo và lựu đạn. Dáng vẻ lì lợm của nó làm cho tôi yên tâm phần nào, nó nhìn sang tôi gật gật đầu như để động viên. Bắt chước nó, tôi lôi mấy quả lựu đạn đặt trước mặt. Khoảng cách với địch ngắn dần, thằng đi đầu cách tôi khoảng hai chục mét, nó quỳ xuống giương một khẩu súng nòng to ngắn về hướng dãy lớp học, một tiếng cạch đanh gọn rồi một chớp lửa đỏ cùng tiếng oành dội phía phải chúng tôi. Đây là thằng xạ thủ M79 đây, nghĩ đến đây tôi rút chốt quả US và tung về phía trước, liên tiếp tôi tung thêm hai quả lựu đạn tấn công nữa, liền sau đó chỗ Lào bùng lên một chớp lửa đỏ của B40, quả đạn nổ tung vào giữa đám lính địch đang xông lên phía B2. Hàng loạt cối cá nhân nã liên tục vào chỗ chúng tôi, tôi chúi đầu trong công sự để tránh.

Bỗng có tiếng thình thịch kèm theo tiếng còi toét … toét, tôi bật dậy, ngay trước mặt tôi chưa đầy chục mét một bóng áo rằn ri đang lao đến tay cầm khẩu cực nhanh, nó há hốc mồm có lẽ không ngờ thấy đối phương từ dưới đất bật lên, tôi găm một loạt đạn vào tên lính cũng chẳng kịp bắn điểm xạ như đã được huấn luyện, đồng thời lăn ra khỏi hố lao sang một hố pháo ngập nước gần đấy. Liên tiếp quét thêm vài loạt vào tụi lính khiến chúng phải lùi ra xa sau những dẫy nhà đổ. Không ngờ Lào đang nằm trong hố pháo với vết thương ở cổ máu chảy ướt sũng cả vạt áo, nước trong hố cũng chuyển sang mầu hồng vì máu của Lào. Tôi băng cho nó nhưng không làm sao cầm được máu, mấy cuộn băng thẫm đẫm máu, cũng chẳng nhớ là chặn động mạch ở đâu nữa. Phồm cởi luôn áo của Lào quấn lấy chỗ bị thương ở cổ rồi lấy một cuộn băng buộc lại. Chúng tôi kéo Lào về hầm, nó phều phào không ra tiếng ra hiệu cho uống nước. Bình tông của tôi bị một mảnh đạn từ lúc nào chảy gần hết nước, còn bao nhiêu tôi cho Lào uống từng tí một, nó mất máu nhiều quá, cho uống nhiều lúc này sẽ chết mất. Chúng tôi giờ chỉ còn ba thằng, phía lớp học không biết còn ai không. Định vứt nắp cơm đã nhão nhoét vì ngấm nước, nhưng Phồm ngăn lại và lấy dao gọt bỏ lớp vỏ ngoài. Không ngờ miếng cơm lại ngon thế, vị ngòn ngọt của nắm cơm làm cho tôi tỉnh hẳn. Lúc này Bình đang cảnh giới, tôi bò lại chỗ nó đưa nắm cơm nhưng nó đang gặm lương khô, nó vừa nhai giọng nghẹn lại “Thằng Lào liệu có sao không anh, nó cùng quê với em.”.

Nằm trong hố pháo ngập nước nơi Lào bị thương, vẫn còn mầu hồng hồng của máu, bên dưới là lớp nước bùn, trời nắng to, hơi nước bốc lên hầm hập, khát nước quá mà bình tông lại thủng, tôi đành lấy cái ca bình tông gạn lấy lớp nước ở trên để uống. Mùi bùn lẫn máu tanh tanh, khăn khẳn như muốn lộn mửa, nhưng chỉ còn cách nhấp thật nhanh để cho đỡ cơn khát. Khẩu B40 của Lào còn 4 quả, tôi còn mấy quả lựu đạn và thủ pháo, đạn AK còn nhiều. Phồm ra hiệu cho chúng tôi lui về phía vườn chuối, ở đây có mấy đoạn rãnh và nhiều hố pháo có thể làm công sự nhưng phía bờ sông lại quá trống trải. Từ bên kia sông vọng sang tiếng ì ầm của xe địch, thấp thoáng giữa những khu nhà đổ nát là bóng lính địch – sau này mới biết đấy là làng Cổ Thành nằm sát Thị xã.

Có một điều lạ cho đến bây giờ tôi chưa hiểu thực sự trận đánh hôm ấy. Được phổ biến là đi tập kích vì mang rất nhiều lựu đạn và thủ pháo để đánh hầm. Không biết có phải lạc đường hay không mà khi trinh sát đưa chúng tôi vào cũng chẳng cho biết đâu là hầm của địch để mà đánh rồi họ rút về, lúc đó đã gần sáng rồi chỉ còn cách trụ lại cho đến đêm. Mà cũng lạ xung quanh toàn là địch nhưng khi buổi sáng chúng tôi chạm súng với những tốp lính đang chốt giữ các mục tiêu mà thôi. Thực sự ác liệt phải đến buổi chiều hôm đó khi địch từ bên kia sông tràn sang tăng cường cho tụi bên này để đánh bật chúng tôi ra. Từ quá trưa chúng tôi thấy nhiều xe GMC đổ quân, lại còn nghe thấy tiếng eo éo của con gái, rồi có cả xe sơn chữ thập đỏ ở tấm bạt bên hông xe. Phía cầu, tiếng xe tăng địch gầm rú lúc to lúc nhỏ mà không phát hiện chúng ở đâu. Nhìn thấy quân địch lố nhố bên kia sông cộng với tiếng gầm rú của các loại xe cộ của chúng lại khiến bụng tôi thót lại tạo thành cảm giác mót tiểu liên tục. Có lẽ cổ nhân dậy cũng đúng sợ vãi cả… Phía đầu cầu bên này tôi thấy địch đang tập trung quân quãng chừng mấy chục tên, nhưng hình như hướng tiến công của chúng không phải ở đây mà dọc theo con lộ thì phải. Chắc chắn ở hướng đó là quân ta căn cứ vào tiếng nổ đặc trưng của AK và B40, B41. Từ đây ra đến chỗ quân ta cũng phải đến ba, bốn trăm mét.

Một loạt cối cá nhân nổ ngay gần chỗ tôi, tôi cảm giác mặt mũi rát ràn rạt, răng lợi tê như bị ai gõ vào. Một cảm giác lạo xạo, mặn mặn trong mồm nhổ ra thấy máu và nửa cái răng cùng một vật xam xám như hạt ngô – thì ra đó là một mảnh cối làm bay nửa cái răng hàm trên của tôi. Một mảnh nữa làm xước cánh mũi trái, may mà không bay mất mũi.

Lại một đợt tấn công nữa từ phía đường tăng, sau tiếng còi của tên chỉ huy tụi lính ào lên nhưng chúng bị khựng lại vì hỏa lực của ta từ phía lớp học quét sang. Một mũi chừng chục tên tạt sang phía chúng tôi, thằng đầu tiên cao to chạy rất nhanh về phía tôi, nó lăm lăm một quả US, chỉ kịp hướng mũi súng về nó tôi kéo một loạt đạn, tiếng nó hự rất to và đổ vật xuống ngay cách mép công sự của tôi quãng năm, bảy mét. Quả lựu đạn của nó văng ra gần chỗ tôi, tôi chỉ kịp tụt xuống hố thì phát nổ. Bùn đất văng tung tóe, tôi tung hú họa liên tiếp hai quả thủ pháo về phía trước, lớp khói tan, trước mặt trận địa của chúng tôi địch để lại mấy xác chết. Cái thằng gần tôi chưa chết hẳn nó rên la “Long … Long ơi … cứu tao với … Đ…má … tao chết mất … Long…”. Địch đã lui về chỗ cũ, thay vào đó chúng liên tục dùng M79 nã vào trận địa của chúng tôi. Một khẩu 12 ly 8 từ phía cầu bắn như vãi đạn, nhưng luồng đạn khá cao có lẽ chúng chưa xác định chính xác được mục tiêu.


Bất chợt trời đang nắng như thế thì mưa sập xuống, mưa như đổ nước, các hầm hố đầy ắp nước, những giọt nước mưa ngọt mát từ vành mũ chảy xuống bàn tay chụm lại xua tan cơn khát. Nhưng mưa như thế này làm cho mắt kính nhòe nhoẹt bắn chác làm sao đây. Tôi lui lại hầm nơi Lào nằm, Phồm cũng đang ở đây, nước trong hầm xâm xấp bụng, nước mưa vẫn tuôn qua nóc hầm làm bằng những thân cây chuối. Lào vẫn còn thở nhưng rất khó khăn, chiếc áo quấn quanh cổ đẫm máu nhưng cũng đã đông lại. Chúng tôi lấy vải mưa phủ lên cho nó khỏi bị nhiễm nước mưa. Cũng chỉ còn cách như vậy để chờ đến đêm tìm cách đưa ra.

Có tiếng hú … hú … rất lạ và bên kia sông những quầng lửa kèm theo một loạt tiếng nổ liên tiếp, lính địch hoảng loạn chạy tung tóe, thì ra là DKB của ta kích vào đó nhưng cũng không nhiều lại bắn sâu vào phía trong. Loạt DKB đó mà lui ra phía bờ sông thì sẽ hiệu quả hơn.

Mưa lại tạnh, bên kia sông thấy địch tập trung đông, rồi thấy mấy cái bóng con gái trong màu áo blu trắng đang léo xéo chạy ra chạy vào sau mấy căn nhà đổ sập. Một ý nghĩ thoáng qua, tôi rê mũi AK về phía đó để nấc bắn phát một. Một thằng lính trong bộ rằn ri chui ra cùng một đứa con gái. Nó cầm một khẩu M79 chĩa sang bên chúng tôi tay kia chỉ chỏ, con bé ưỡn ẹo tay cầm khẩu súng của thằng lính đưa cho, thằng lính đứng sau lưng ôm lấy hông con bé, một tiếng cạch đồng thời tiếng quả đạn nổ ở phía vườn chuối bên này. Không thể chấp nhận chuyện như thế, tôi chỉnh lại thước ngắm và xiết cò. Chỉ một phát thôi, con bé bật ngửa ra phía sau, vạt áo blu trắng ở hông nó loang máu, thằng lính ngồi thụp xuống kéo con bé vào sau ngôi nhà đổ, khoảng cách từ chỗ tôi sang chỗ đó khoảng 150 mét. Lúc đó sao bình tĩnh thế mà lại không mưa nên nhìn rất tốt. Sau này nhiều khi nghĩ lại mình có ác quá không, nhưng khi nói chuyện với những anh em ở trong B dài thì trong đó họ ghét nhất pháo Mỹ, nhì pháo đĩ (pháo dàn, pháo bầy của Mỹ thì bắn nhiều với mật độ dầy và đủ loại, còn pháo do mấy con đĩ đú đởn bắn lung tung chẳng theo quy luật nào mà lần) thì nó rất xứng đáng được hưởng phát đạn đó.

Phía bờ sông súng nổ dồn dập, một tốp địch từ dưới sông nhô lên, chúng đã đặt một khẩu trung liên quét về phía chúng tôi. Đạn M79, đạn trung liên xé nát những thân cây chuối quanh chúng tôi, chúng còn xa quá không thể dùng lựu đạn được, tôi cắm quả đạn vào khẩu B40 của Lào và đưa lên vai, run run hướng về phía bờ sông, địch từ dưới sông ùa lên, phía Bình và Phồm đã nổ súng hất địch trở lại. Khoảng hai chục tên lính rằn ri nhô lên khỏi bờ sông, chúng có vẻ thiện chiến hơn bọn trước bởi thằng nào cũng khoác áo gi-lê chống đạn trên áo cài toàn lựu đạn, khoảng cách thu hẹp dần, đến tầm của B40 tôi nhổm dậy xiết cò, một tiếng ục làm tai tôi ù đặc, khói lửa đỏ chùm lên, tôi chỉ kịp lao theo sang hố bom bên cạnh thì mấy quả M79 liên tục nổ chát chúa vào chỗ tôi vừa nằm. Cùng với quả B40 của tôi, bên phía lớp học cũng liên tiếp phóng mấy quả B40 phía đám địch, chúng dạt hết xuống sát sông.

Chợt phía phải chúng tôi địch bắn một loạt đạn cối nhưng tiếng nổ không to và liền sau đó những lớp khói vàng cuồn cuộn bốc lên, theo chiều gió tạt về phía chúng tôi. Mắt mũi cay xè, cổ họng tắc lại, nước mắt giàn giụa, bụng thót như muốn ói ra. chúng tôi đã dính đạn hóa học của địch. Trong túi cứu thương có một ống thuốc phòng độc nhưng có kịp lấy ra đâu, tôi úp mặt xuống hố nước cho đỡ cay mắt và lấy khăn mặt cài bên hông nhúng nước hố bom bịt chặt mũi mồm lại, dù sao cũng đỡ hơn chỉ có nước mắt vẫn còn ứa ra cay xè. Một trận mưa nữa ập đến, chính trận mưa này đã tẩy sạch khu vực nhiễm độc của khói đạn hóa học. Chúng tôi bỏ mũ, ngửa mặt lên cho nước mưa xối lên mặt, lên mũi, lên mắt cho sạch hết hơi độc bám vào, nước mưa theo miệng qua cổ họng xuống dạ dày là dịu đi cái rát, cái cay của hơi độc nhưng mùi vị hăng nồng của nó cũng không thể xua đi hết được. Phải mấy tháng sau, cái cảm giác đó mới hết.

Trời tối sầm, những hạt mưa tát vào mặt lạnh lạnh có lẽ vì đói, vì rét, vì liên tục khô lại ướt và nhất là vì sợ khi chung quanh toàn là địch, liệu tối rút ra có được không ? Phía cầu tiếng rú của xe tăng địch lại rộ lên, những loạt 12 ly 8 bắn rất căng vào khu lớp học của B2, từ các vị trí chốt của địch xung quanh khu trường học chúng liên tục dùng cối cá nhân bắn vào chỗ chúng tôi. Chính vị trí của tiểu đội tôi gần bờ sông lại ít bị cối nhất. Giờ xe tăng địch mà xuất hiện thì chỉ còn có ba quả đạn, có thể đủ cầm cự chờ đến đêm xuống. Khu vườn chuối chỗ chúng tôi nước ngập xâm xấp, qua màn mưa nặng hạt vuốt không kịp, mắt kính nhòe nhoẹt vì nước mưa cộng với mắt vẫn còn cay xè vì khói độc đã hạn chế tầm nhìn rất nhiều. Phía sau tôi nghe tiếng ục của B40, quả đạn lướt trên đầu chúng tôi và nổ tung cách chỗ chúng tôi không xa, trong lúc đang lấy nước mưa xoa mắt, xoa mũ, xoa mặt cho hết hơi độc bám vào người thì địch đã từ dưới bờ sông lặng lẽ ùa lên chỗ chúng tôi, B2 phía sau phát hiện ra trước đã nổ súng chặn lại.

Lần này lợi dụng trời mưa địch tấn công từ hai phía : từ bên kia vượt sông đánh vào chỗ vườn chuối bên cánh trái, phía cầu chúng dùng đại liên yểm trợ cho bọn từ đường tăng đánh trực diện còn bọn ở các chốt trong các khu nhà quanh đấy liên tục dùng M79 bắn vào trận địa của chúng tôi. Tôi dùng AK lia vào toán địch gần nhất, nhưng chúng chỉ lui lại và tản ra sau mấy bức tường đổ. Chúng quét cực nhanh liên tiếp về phía chúng tôi, từ phía trái tiếng Phồm hét : “Tường B40”, tôi vơ lấy khẩu B40 đã cắm sẵn quả đạn, chẳng kịp ngắm chỉ kịp chĩa mũi súng về đám lính đang núp sau bức tường đổ và xiết cò. Quả đạn nổ tung nơi bức tường đổ nhưng vì quá gấp, tầm súng lại hơi thấp nên luồng lửa phụt về phía sau sát miệng hố bom làm cho hơi nóng hắt vào lưng nóng dẫy.

Những thằng lính còn lại chạy dạt ra phía bờ sông. Địch tiếp tục đổ quân từ dưới sông lên nhưng lần này chúng ở khá xa, không tiến công chúng tôi mà lại đi theo hàng một lầm lũi theo vệt đường tăng tiến về khu vực sau trường học. Chúng định làm gì ? Vào thay chốt hay sao mà đứa nào cũng mang ba-lô sau lưng hoặc tăng cường quân để hôm sau tiếp tục phản kích. Nhưng chắc chắn phía đó là quân ta. Mưa vẫn tiếp tục, trời cũng đã nhập nhoạng, hỏa châu địch liên tiếp soi sáng cả khu vực. Bây giờ cảm giác đói mới đến, nhai trệu trạo bánh lương khô mà miệng đắng ngắt vì hơi độc lúc ban chiều. Người tôi bã ra có lẽ sự căng thẳng của một ngày đã làm cho cơ thể tôi muốn chùng xuống. Trận đụng độ đầu tiên đến với tôi là như vậy. Còn đêm nay thế nào và cả ngày mai nữa.

Trời tối hẳn, tôi trườn về phía trước nơi mấy tên địch nằm gần nhất, chính thằng này khi trúng đạn rên la gọi bạn rất to. Nó nằm ngửa, mũ sắt lật sang bên, áo giáp của nó phanh ra, tôi kéo cái ba-lô ra khỏi người nó, trong ba-lô ngoài bộ quần áo rằn ri hôi rình tôi tìm thấy vài ba thứ lặt vặt như mấy bao thuốc Bastos Quân tiếp vụ, dao cạo râu cụp xòe, mũ nồi, mấy túi cơm sấy, thịt hộp.những thứ mà lính ta đều cần. Thằng bên cạnh không có ba-lô nhưng túi ngực của nó có một cái bật lửa Zippo và một cuốn sổ tay bìa ni-lon. Tôi nhét bật lửa và cuốn sổ vào túi áo ngực thì Phồm đi hội ý về cho biết ông Nghĩ C trưởng bị thương ngay từ sáng, một số hy sinh, cả đại đội còn chục tay súng đợi đêm xuống sẽ rút ra.

Ba anh em ngồi dựa vào nhau nhai trệu trạo cơm sấy trộn nước hố bom với thịt hộp vừa kiếm được, hít hà hơi thuốc lá một cách khoan khoái, Lào vẫn còn rên khe khẽ nó chẳng ăn được gì chỉ uống nước. Phồm phân công tôi khi rút sẽ mang Lào theo.

Phía bên kia sông địch bắn pháo sáng rực trời kèm đủ các loại pháo hiệu xanh đỏ, sao chúng bắn lắm thế. Sau này tôi mới biết địch ăn mừng vì đã chiếm được Thành Cổ – đấy là đêm 16/9/1972.

Xốc Lào lên lưng, chúng tôi lui lại phía lớp học. Gặp Chiến, nó không bị sao, mừng quá. Chỉ huy đại đội và trung đội không còn ai, chỉ còn lại mấy tiểu đội trưởng sẽ chỉ huy anh em tìm đường rút ra. Liệt sĩ sẽ để lại để dẫn trinh sát vào mang ra.

Tiếng địch nói chuyện với nhau rất gần, chúng tôi sẽ từ khu trường học lách qua những căn nhà đổ rồi xuống đường tăng. Tôi cõng Lào trên lưng trườn qua gần hết đường tăng thì tốp đi trước dừng lại. Địch ở bên kia con đường trong các dãy nhà đổ ven đường. Quyết định phải phá vây mà ra. Tôi đặt Lào vào một cái hố pháo trên đường tăng, vơ vội ít cỏ rác phủ lên cho nó ghé vào tai nó thì thào “Nằm yên ở đây, chúng tao phải phá vây rồi sẽ đưa mày ra”. Dường như nó không muốn rời tôi, bàn tay nó bấu vào cánh tay tôi như muốn nói “Đừng bỏ em lại.”.

Cái cảm giác bàn tay nó bấu vào tay tôi cứ tuột dần, tuột dần ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ. Không mang được nó ra, tôi ân hận lắm nhưng liền sau đó tôi cũng bị thương.

Khu vực nầy là khu vực tranh chấp của hai bên và sau Hiệp định Paris 1973 do địch kiểm soát. Không hiểu trong số những ngôi mộ chưa biết tên của Nghĩa trang Liệt sĩ xã Triệu Thành có mộ của Lào và của anh Tạo không ? Lần nào đi Quảng Trị và trở lại nơi anh Tạo và Lào hy sinh giờ là trường tiểu học Triệu Thành, tôi không khỏi nghẹn ngào nhớ tới trận đánh đầu tiên đó với những người đồng đội đã hy sinh mà mình không thể mang họ ra được. Cầu mong các anh sống khôn chết thiêng, ở nơi xa các anh hãy phù hộ độ trì cho gia đình, người thân có một cuộc sống an lành, phù hộ cho quốc thái dân an và đừng bao giờ để những thảm cảnh do chiến tranh gây ra như thế nữa. Còn cậu Lào, người cùng tiểu đội quê Nghệ An, cũng thế, bị thương nặng tôi cõng ra nhưng nửa đường gặp địch buộc phải đặt cậu ta trong một hố pháo để phá vây, rồi tôi cũng bị thương khi tỉnh dậy xung quanh không còn ai và không xác định được phương hướng. Tôi cứ lết mãi lết mãi theo hướng AK nổ, cuối cùng gặp được đơn vị bạn.

Mấy chục năm đã qua tôi vẫn mường tượng lúc đặt cậu ta vào hố pháo bàn tay cậu ta níu chặt cánh tay tôi dường như muốn nói “Đừng bỏ em lại.” Cậu ta bị mảnh cối trúng vào cổ mất nhiều máu và không thể nói được. Tôi phủ cỏ rác che cho Lào và ghé vào tai nói nhỏ : “Nằm yên đây, tụi tao phải phá vây rồi sẽ đưa mày ra.” Cho mãi đến năm 2011 qua nhiều con đường chúng tôi tìm ra quê của Lào tại xã Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An. Bố mẹ Lào đã khuất núi chỉ còn vợ chồng người anh trai sống trong một ngôi nhà nhỏ, nghèo nàn. Cuối tháng 11/2011 tôi và Phạm Chiến đã tìm đến nhà và thắp cho Lào nén tâm nhang hối lỗi vì không thể mang Lào ra sau gần 40 năm. Với gia đình anh Tạo, sau bao năm đi tìm quê quán của anh, tình cờ bạn bè và vong linh anh mách bảo, tôi và Chiến đã tới quê anh ở thị xã Phúc Yên. Âu cũng là nhẹ nhõm phần nào. Nơi anh Tạo và Lào hy sinh cũng là nơi tôi bị thương là trường tiểu học Triệu Thành thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị.

Lên khỏi đường tăng, trong ánh sáng mờ ảo của hỏa châu, tôi phát hiện mấy đốm đỏ của thuốc lá cách không xa liền sau đó một tiếng la “Ai ! Đ. má.”. Phía trước tôi là Chiến, nó bật dậy phóng luôn một quả B40 vào chỗ đó, luồng lửa quả đạn sẹt ngang qua người tôi làm tôi tối tăm mặt mũi, một chớp đạn nổ cách tôi không xa khiến tôi tê dại hết cả người và sau đấy không biết gì hết.

Tôi mở mắt, định thần một lúc nhớ lại những gì đã xảy ra. Xung quanh tôi không còn ai cả, đồng đội đâu hết cả rồi, có ai làm sao không, sau khi thằng Chiến bắn quả B40, địch bắn một loạt M79 vào chỗ chúng tôi và tôi hứng trọn một quả. Tay phải tôi tê cứng, ngón cái đẫm máu, chỗ nào cũng đau và thấy máu. Chân trái cũng bị nên cử động rất khó khăn. Hướng nào là hướng ta, hướng nào là hướng địch, tôi cũng không rõ nữa. Dần dần tôi cũng định được hướng : phía bên trái nơi các loại pháo sáng, pháo hiệu bắn lên rực trời, chính diện là con đường chạy từ cầu xuống và đi chếch về phía phải – nơi đó chắc chắn sẽ có quân ta vì từ sáng địch tập trung đánh nhiều về phía đó, cũng từ phía đó tôi cũng đã nghe thấy tiếng nổ rất đặc trưng của đạn AK.

Tay phải bị thương không thể dùng súng được nữa, tay trái cầm súng, tôi dùng chân phải đẩy toàn thân xoay chếch về bên phải trườn đi. Cứ thế tôi lết dọc theo đường tăng được một quãng, từ những ụ nhà đổ quanh đấy vọng ra tiếng nói cười của địch chợt làm tôi thót tim lại : địch phát hiện ra thì làm sao đây, toàn thân bị thương, bàn tay phải cầm súng cũng bị thương, cánh tay trái cũng bị nốt. Địch mà túm được mình thì làm sao đây ? Lính mới tò te biết gì mà khai ! Đòn thì mình làm sao mà chịu được, khai thì biết khai cái gì ! Chỉ có chọn cái chết khi lọt vào tay chúng mà thôi ! Tôi cắn răng chịu đau dùng tay trái lần tìm lựu đạn, sờ thấy còn hai quả lựu đạn, tôi lấy ra một quả, quả lựu đạn này chính là quả được trang bị khi ở Bắc Thái. Bóp chặt mỏ vịt của nó trong tay tôi đưa răng cắn vào vòng chốt an toàn định rút ra rồi lại thôi vì thấy chưa cần thiết. Tôi cuốn hai vòng quai khẩu AK vào cánh tay phải, bốn ngón tay còn lành nắm chặt lấy đầu ngắm. Chọn cho mình được cách giải quyết phù hợp khi tình thế xấu nhất xảy ra, tôi đạp mạnh chân phải đẩy toàn thân tiếp tục lết dọc theo con đường tăng, nhiều lúc các vết thương đau quá lại thêm sức lực phải dốc ra khiến tôi mệt quá lịm đi. Hình như đường tăng bắt vào con lộ vì tôi không cảm thấy đất bùn nữa mà lại lổn nhổn đá củ đậu, dưới ánh sáng của hỏa châu tôi phát hiện bên trái không xa quãng ba chục mét những đốm đỏ lập lòe của thuốc lá, mấy thằng lính địch đang túm tụm với nhau sau bức tường đổ của một căn nhà ven đường.

Đợi cho đến khi ánh sáng hỏa châu của địch bớt đi tôi lết tiếp về hướng phải con đường, một hố bom lớn đào giữa đường tôi chúi mình xuống hố bom trườn sang bên kia đường nơi thấp thoáng những cây cối bị bom đạn phạt trụi. Sang đến bên này đường tôi đến một khu đất nhấp nhô những mô đất to nhỏ xen lẫn những bụi cây xơ xác. Một tiếng bụp ngay gần đấy ánh sáng quả hỏa châu địch bắn ngay gần chỗ tôi sáng rực như ban ngày, tiếng húng hắng vọng ra đâu đó cách tôi không xa, chết rồi mình nằm sát địch quá. Bất chợt từ chỗ đó và những vị trí xung quanh đấy địch phóng liên tiếp nhiều quả M79 về phía nơi tôi dự đoán có quân ta, nhìn điểm nổ chỉ cách đó khoảng hơn trăm mét. Tôi quan sát lại nơi tôi đang nằm giữa những mô đất mà hầm của địch lại xung quanh, chỉ còn cách lách vào giữa chúng mà đi.

Qua khỏi đám gò đất bất chợt tôi nín thở khi ngay trước mắt tôi một cái bóng sừng sững với cái đầu khum khum như đội mũ sắt chập chờn dưới ánh hỏa châu lấp ló sau một bụi cây. Thế là hết, tôi ghé răng rút mạnh chốt quả lựu đạn và giữ chặt mỏ vịt. Chỉ cần buông tay là sau ba giây quả lựu đạn sẽ nổ tung và. Tôi nằm im nín thở nhìn về phía bóng tên địch nhưng mãi không thấy nó cựa quậy, mà cảnh giới kiểu đó thì nghe chừng dễ bị ăn đạn. Tôi tạt sang phải trườn dần tránh xa chỗ tên lính đứng gác. Báng súng của tôi chạm vào một vật cứng kêu đánh cộp, tôi thót cả người nhưng bóng tên lính vẫn bất di bất dịch, tôi thở phào vì phát hiện ngay cạnh tôi là một tấm bia mộ khá lớn đổ nghiêng mà báng súng của tôi đã va phải. Tấm bia người ta đúc bằng bê tông, đầu bia khum khum giống hình mũ sắt. Chính cái bóng như người đứng lấp ló trong bụi cây cũng là một tấm bia mộ.

Tôi trườn sát dưới chân tấm bia len giữa bụi cây thấp thì phát hiện một mảnh giấy gói lương khô trăng trắng của quân ta bỏ lại. Giấy bọc lương khô vẫn kêu rọt.rẹt chưa bị ướt sương đêm chứng tỏ quân ta cũng vừa ở đây hoặc còn ở quanh đây. Ý nghĩ đó làm tôi phấn chấn hẳn lên nhưng vẫn không quên trong tay mình còn quả lựu đạn đã rút chốt. Lết qua một bãi trống xâm xấp nước, tôi gục mặt vào vũng nước để cho tỉnh táo và tiếp tục lết về phía trước.

Một tiếng gằn giọng ngay trước mặt “Ai ?”. Nhận ra tiếng Bắc tôi vội trả lời “Tôi ! C3 Trà Châu đây”. Sức mạnh ở đâu đến với tôi lúc đó, tay phải chống khẩu AK tôi đẩy người lao vào phía trước và lăn xuống một con hào. Hai người lính giữ chặt tôi vặn hỏi Trà Châu là thế nào. Thì ra khi chúng tôi vào trận trung đoàn đã đổi phiên hiệu từ Bắc Bình sang Trà Châu, anh em trong chốt vẫn dùng phiên hiệu cũ là Bắc Bình. Chợt một cậu lật mũ tôi ra và hét “Thám báo ! Chỉ có thám báo mới đeo kính” và một cậu cứ báng AK thúc vào ngực, vào bụng tôi, một cậu lột hết các thứ trên người tôi ra, thấy tôi bàn tay trái nắm chặt quả lựu đạn, cậu ta nói “Buông tay ra, cái gì thế ?”

– Lựu đạn đã rút chốt rồi, cẩn thận đấy. Tôi trả lời.

Anh ta một tay bóp chặt bàn tay trái nắm quả lựu đạn của tôi và tay kia bóp lấy mỏ vịt của quả lựu đạn và hét “Bỏ tay ra !”. Quả lựu đạn được anh ta ném ra ngoài đã nổ tung.

Một người nữa từ ngách hầm xuất hiện. Cậu lính đang thúc báng súng vào người tôi nói “Anh Hồng ! Có một người của C3 nhưng lại đeo kính, tôi nghi là thám báo địch vì anh ta dùng mật danh không đúng”. Người tên là Hồng hỏi tôi “c trưởng c3 tên là gì ?”. “Tên là Nghĩ !”. Ngay lúc đó một giọng nói ồm ồm quen quen hét lên “Thám báo hả ? Khử bỏ mẹ nó đi !”. Tôi gọi “Anh Nghĩ ơi ! Tường đây. !” Ông Nghĩ từ một ngách hầm nhô ra “ Tường hả ! Anh em đâu hết cả rồi.”.
– Lúc rút ra đụng địch, tan tác cả, tôi bị thương. họ bảo tôi là thám báo.
– Hồng ơi ! Thằng này là lính của tao, nó bị cận phải đeo kính.

Người lính thúc báng súng vào tôi đưa tôi vào hầm, băng bó các vết thương và đưa cho tôi một nắm cơm với ruốc. Người tôi đau nhức, bải hoải hết cả người, lúc này mới biết mình còn sống. Cậu lính cho biết đây là chốt của C6, người tên là Hồng là C trưởng và ông Nghĩ trước khi về C3 của tôi là C phó của C6, ông Nghĩ bị thương gẫy chân từ sáng, bò ra đến đây. Cậu ta có vẻ ân hận khi thúc báng súng vào người tôi “Lính địch ra trận cũng có thằng đeo kính, nhưng lính mình đeo kính thì ông là người tôi gặp đầu tiên.”

Đau đớn, mệt mỏi, tôi thiếp đi không biết gì nữa.

(Còn tiếp)

L.X.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder