Alejandro Roces (1924 – 2011) là một nhà văn, nhà viết tiểu thuyết và một trong những nhà văn người viết truyện ngắn hay của Philippin. Ngoài truyện ngắn, ông còn viết vô số bài báo tập trung vào việc bảo tồn những di sản văn hóa Philippin bị bỏ quên. Tác phẩm của ông đã được xuất bản trên nhiều tạp chí trên thế giới và đã nhận được nhiều giải thưởng quốc gia và quốc tế. Nguyễn Khắc Phước dịch.
Người Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống nhẹ. Chúng tôi uống chỉ vì ba lý do chính đáng: Uống khi rất hạnh phúc, uống khi rất buồn và uống vì bất kỳ lý do nào khác.
Khi người Mỹ chiếm lại Philippin (1), họ xây một căn cứ không quân cách khu dân nghèo của chúng tôi một vài dặm. Lính Mỹ xuất hiện ở đây là chuyện thường ngày.Tôi đã gặp rất nhiều người và kết bạn với họ.Tôi không thể phát âm tên của họ.Tôi cũng không thể phân biệt họ khác nhau chỗ nào.Tất cả người Mỹ đều trông giống nhau.Tất cả đều da trắng.
Một chiều, tôi đang cày ruộng với con trâu tên Đatu của tôi.Tôi đi chân trần và để mình trần, quần xăn đến đầu gối.Vải quần bằng sợi abaca (2) và dệt trên khung dệt tự chế. Tôi mang con dao bolo (3) ở bên hông.
Một người lính Mỹ đang đi trên đường.Khi thấy tôi, anh ấy tiến về phía tôi.Tôi ngừng cày và đợi anh ta. Tôi thấy anh mang theo nửa chai rượu whisky. Chai rượu whisky dường như là một phần của bộ đồng phục quân đội Mỹ.
“Xin chào chú em da nâu,” anh nói, vỗ nhẹ vào đầu tôi.
“ Chào Joe,” tôi trả lời.
Tất cả người Mỹ được gọi là Joe ở Philippin.
“ À này.Chú biết chỗ nào bán whisky không?”
“ Thật đáng tiếc, Jose,” tôi trả lời. “Không có quán bar nào trong khu này.”
“ Có cái này đây, nhấp một chút đi.Nãy giờ chú mày làm việc mệt rồi đó,” anh nói, đưa cho tôi nửa chai rượu.
“ Không, cảm ơn, Joe,” tôi nói.“Người Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống nhẹ.”
“ Chà, chú mày không uống gì sao?”
“Có uống chứ, nhưng không phải whiskey.”
“Thế chú mày uống cái quái gì?”
“Tôi uống lambanog.”
“Nước ép cây rừng à?”
“Có lẽ lính Mỹ các anh thường gọi món uống đó như vậy.”
“Tôi có thể mua thứ đó ở đâu?”
“Tôi biết mấy chỗ bán, nhưng tôi e rằng anh sẽ không thích nó.”
“Tôi thích tất tần tật.Khỏi lo. Tôi đã uống đủ thứ — rượu whisky, rượu rum, rượu mạnh, rượu tequila, rượu gin, rượu sâm banh, rượu sake, rượu vodka. . . Anh ấy kể nhiều thứ nữa mà tôi không thể viết ra được.
“Tôi không chỉ uống nhiều, mà thứ gì tôi cũng uống.Tôi đã uống nước hoa Chanel Số 5 khi ở Pháp. Ở New Guinea, tôi đã say vì nước cạo râu. Khi nằm bệnh viện, tôi đã xỉn vì cồn y tế. Trên đường đến đây, tôi đã ngất ngư với thứ nhiên liệu để chạy ngư lôi. Chú mày không ngoa khi nói tôi uống nhiều.Vậy thì, chúng ta hãy uống nước ép cây rừng, được không? ”
“Được thôi,” tôi nói. “Đợi tôi một lát để dẫn con trâu này vào hố bùn, sau đó chúng ta có thể về nhà tôi và uống.”
“Chú mày yêu con vật đó lắm, phải không?”
“Vâng, tôi yêu nó lắm,” tôi trả lời.”Nó làm một nửa công việc của tôi.”
“Tại sao chú mày không dùng hai con?”
Tôi không trả lời.
Tôi gỡ Đatu khỏi cái cày và dẫn nó đến hố bùn. Joe theo tôi. Đatu nằm trong bùn và khoái chí kêu ọ ọ.
Đatu lắc đầu và dùng cặp sừng rộng của nó để vẩy bùn trên lưng. Nó lăn qua lăn lại và cả thân mình nó được bao phủ bởi lớp bùn nhầy nhụa. Vẻ hài lòng hiện trong mắt nó.Sau đó, nó vung đuôi khiến Joe và tôi phải chạy khỏi hố bùn để tránh bị bùn văng trúng.Tôi để Đatu trong hố bùn. Sau đó quay sang Joe, tôi nói.
“Nào, đi thôi.”
Và chúng tôi tiến về nhà tôi.Jose thận trọng nhìn quanh.
“Ở đây nhiều dừa quá,” anh nói.
“Ở Mỹ không có dừa à?” tôi hỏi.
“Không,” anh trả lời.“Quê tôi có nhiều thông.”
“Cây thông trông giống thế nào?”
“Ồ, nó cao và đường bệ lắm.Nó đâm thẳng lên trời giống như một tòa nhà chọc trời.Nó tượng trưng cho nước Mỹ.”
“Vâng,” tôi nói, “còn cây dừa tượng trưng cho Philippin.Nó vươn lên trời, nhưng lá nó vòng xuống đất, như thể ghi nhớ nơi đã sinh ra nó.Nó không quên đất đã cho nó sự sống.”
Trong chốc lát, chúng tôi đến căn lều lợp bằng lá dừa nước của tôi. Tôi lấy cái thang tre và tựa nó lên một cái cây. Sau đó, tôi leo lên chiếc thang và hái mấy trái calamansi.
“Cái gì thế?”Joe hỏi.
“Chanh Philippin,” tôi trả lời. “Chúng ta cần trái này để làm đồ uống.”
“Ồ, thuốc giải rượu.”
“Đúng vậy, Joe.Lính tráng thường gọi vậy đó.”
Tôi bỏ chanh đầy túi rồi leo xuống. Tôi ra giếng trong vườn và rửa chân cho sạch bùn. Rồi chúng tôi leo lên túp lều bằng thang tre. Trời đã tối nên tôi đổ đầy dầu vào vỏ dừa, nhúng một đầu bấc vào dầu và thắp sáng. Cây đèn dầu tỏa ánh sáng nhấp nháy. Tôi cỡi con dao bolo và treo nó lên tường.
“Mời bạn ngồi, Joe,” tôi nói.
“Ở đâu?”Anh ấy nhìn quanh, hỏi.
“Ngay đó,” tôi nói, chỉ xuống sàn nhà.
Joe ngồi xuống sàn.Tôi thái hai trái chanh thành lát, lấy một ít muối thô và đặt bên cạnh chân bàn.Tôi đi vào bếp và lấy cái ống tre, nơi tôi để chai rượu lambanog.
Lambanog là một thức uống được chiết xuất từ cây dừa với vỏ cây đước được nghiền thành bột để ngăn chặn sự bùng cháy tự phát.Nó có nhiều công dụng.Chúng tôi sử dụng nó để chữa rắn cắn, chống sốt rét, làm thuốc trừ sâu và để thuộc da trâu.
Tôi đổ một ít lambanog vào hai vỏ dừa được đánh bóng và đưa một vỏ cho Joe. Tôi pha loãng đồ uống của tôi với một ít rượu whisky của Joe. Nó biến thành màu trắng đục như sữa.Cả hai chúng tôi đều ngồi trên sàn nhà.Tôi đổ một ít đồ uống đó lên sàn tre; nó chảy qua các khe hở xuống mặt đất bên dưới.
“Này, cậu đang làm gì vậy,” Joe nói, “đổ rượu ngon đi à?”
“Không,” tôi nói.”Ở đây có tập quán luôn luôn trả lại cho đất một chút những gì chúng tôi đã lấy từ đất.”
“Này,” anh nói, nâng cái vỏ dừa lên.”Mừng chiến tranh kết thúc!”
“Mừng chiến tranh kết thúc!” tôi nói, cũng nâng vỏ của tôi lên.Tôi nhấp một chút.Liền sau đó là một lát chanh nhúng trong muối thô.Joe uống nhưng phản ứng rất kỳ cục.
Đôi mắt anh lồi ra như mắt ếch và tay nắm lấy cổ họng, trông như thể anh ta đã nuốt một con rết.
“Nhanh lên, thuốc giải rượu!”anh nói.
Tôi đưa anh ta một lát chanh nhúng vào muối chưa tinh chế.Anh nặn chanh vào miệng.Nhưng đã quá trễ rồi.Không gì có thể giải được.Chanh không ích gì.Tôi nghĩ kể cả một quả dừa cũng không thể cứu anh ta.
“Chuyện gì thế, Joe?”Tôi hỏi.
“Không có gì,” anh nói.”Lần uống đầu tiên tôi thường bị thế này.”
Anh thở phì phò và nước mắt lăn dài trên má.
“Vâng, lần uống đầu tiên luôn luôn tác dụng như một máy rà mìn,” tôi nói, “nhưng lần thứ hai sẽ êm hơn.”
Tôi rót vào vỏ dừa của anh lần thứ hai. Một lần nữa, tôi pha loãng đồ uống của tôi với rượu whisky của Joe. Tôi rót vào vỏ dừa của mình.Tôi thấy cổ anh ta đẫm mồ hôi.Anh cởi khuy áo cổ và nới lỏng cà vạt.Joe cầm lấy vỏ dừa của anh nhưng anh ta có vẻ không lo lắng lắm. Tôi nâng vỏ dừa lên và nói: “Chúc mừng nước Mỹ!”
Tôi cố gắng cho ra dáng một chủ nhà tốt bụng.
“Chúc mừng nước Mỹ!”Joe nói.
Cả hai chúng tôi đều uống cạn.Joe lại phản ứng một cách buồn cười.Cổ anh ta vươn dài như cổ rùa. Và bây giờ anh ta thở hổn hển như một con trâu điên. Một tay anh nắm chặt cà vạt.
Rồi anh nhìn xuống cà vạt của mình, ném nó sang một bên, và nói: “Ôi, Chúa ơi, nảy giờ tôi nghĩ đó là lưỡi của tôi.”
Sau đó anh bắt đầu nghiến răng.
“Chuyện gì vậy, Joe?”Tôi hỏi, vẫn đang cố trở thành một chủ nhà hoàn hão.
“Nhiều quá rồi, đồ uống chết tiệt này đã làm cái răng giả của tôi long ra.”
Khi Joe thở ra, một con mối bay quanh ngọn lửa nhấp nháy bị rơi xuống chết. Anh nhìn chằm chằm vào con mối và nói: “Rồi chúng sẽ đồn rằng người ta đang xịt DDT.”
“Uống một chút nữa nhé?”Tôi hỏi.”Chúng ta ở đây để uống mà!”
“Không, cảm ơn,” anh nói.”Tôi xong rồi.”
“Thôi được.Chỉ một lần nữa thôi.”
Tôi đổ lambanog vào vỏ dừa và một lần nữa pha loãng đồ uống của tôi với rượu whiskey. Tôi đưa cho Joe đồ uống của anh ấy.
“Chúc mừng Philippin,”anh nói.
“Chúc mừng Philippin,” tôi nói.
Joe uống một chút. Tôi không thể nhìn thấy rõ ràng trong ánh sáng nhấp nháy, nhưng có thể thề rằng tôi thấy khói bốc ra từ tai anh ta.
“Thứ này ắt hẵn có phóng xạ,” anh ấy nói.
Joe hắt phần rượu còn lại lên bức tường dừa nước và hét lên: “Lửa, đồ chết tiệt, lửa!”
Ngay khi tôi đang còn muốn uống thì Joe đã ngất đi. Anh nằm ngay đơ trên sàn như một khúc gổ. Chẳng giống ai.
Tôi biết rằng những người lính phải về doanh trại vào một thời điểm nhất định.Vì vậy, tôi quyết định đưa Joe trở lại.Tôi cố nhấc anh ta lên.Anh ta nặng như trâu.Tôi phải gọi bốn người hàng xóm để giúp tôi mang Joe.Chúng tôi đặt anh lên lưng trâu. Tôi lấy con dao bolo và buộc vào hông. Sau đó, tôi đưa anh ta trở lại trại lính.Người dân làng không hiểu chuyện gì đã xảy ra với người Mỹ này.
Sau hai giờ, tôi đến sân bay. Tôi tìm doanh trại của anh và đưa anh ta đến đó. Bạn bè anh giúp tôi đưa anh lên giường. Họ rất vui khi gặp lại anh.Mọi người đều cảm ơn tôi đã đưa anh ấy về nhà. Khi tôi rời trại lính, một người bạn của anh ấy gọi tôi và nói:
“Này bạn!Làm một lon bia trước khi đi nhé?”
“Không, cảm ơn,” tôi nói.“Người Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống nhẹ.”
-Nguồn: Bài đăng trên trang Kathang Pinoy, Tư tưởng và Văn học Philippin, http://kathangpinoy.blogspot.com/.
Chú thích của người dịch:
(1) Chiến dịch Philippines 1944-1945 của quân Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đánh bại lực lượng Nhật Bản chiếm đóng Philippines. Chiến dịch bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 năm 1944 và kéo dài cho đến khi chiến tranh kết thúc. (Theo Wikipedia.)
(2) Abaca: thứ cây trông tựa như cây chuối.
(3) Dao bolo là cái dao lớn, gần giống cái rựa hoặc lưỡi lê, cán hơi cong. Người Phi dùng để phát cây rừng, chặt dừa, đốn mía và đặc biệt còn dùng làm vũ khí. Dao bolo thường thấy trên nhiều tượng đài chiến thắng ở Philippin.