Nhà số 4- Chùm thơ của Phùng Văn Khai

NHÀ SỐ 4

 

Hương cây thơm vừa trăm năm

Thơm vào chiến trường khói lửa

Mái vòm tinh sương sóc nhỏ

Nâu tròn mắt biếc hạt na

 

Nhớ người đi vào mây trắng

Trang văn nao nức lửa đèn

Nhớ người từng đêm lạnh vắng

Sông Hồng như lửa đang nhen

 

Ai kia định ngôi dân nước

Ai kia cỏ nội hoa hèn

Người nối người lên bát ngát

Đang về thắm thiết như sen

 

Mùa màng xôn xao tim mực

Máu còn âm ỉ xanh cây

Từng trang, từng trang kết ngọc

Xác thân thầm vào đất đai

 

Kẻ non xanh đi khuất khuất

Gửi đá ven đường chiến công

Người lấy thân làm tre trúc

Bên cầu nước chảy bâng khuâng

 

Ai người cát non kê biển

Tổ quốc u oa đánh vần

Ai người đọc lời ai điếu

Đường khuya đá sỏi phân vân

 

Ai tự khoác vào tai ách

Trâu cày ngựa cưỡi gươm khua

Ai kia nửa chừng buông bút

Lặng im như thóc trong bồ

 

Ai còn nhân tình vương lại?

Giọt máu đào thơm bến sông

Ai người oan khiên ngậm bóng

Mây xa thanh thản hư không

 

Ta nguyện như hương cháy đỏ

Thơm cùng hoa đại đêm đêm

Ta nguyện như đèn sáng tỏ

Âm thầm chờ đợi trăng lên.

 

 

PHÙNG KHẮC KHOAN

Thay lời cảm ơn nhà thơ Trần Lê Văn

 

Người có đức để cháu con phúc đức

Chữ nghĩa muôn đời chữ nghĩa của cha ông

 

Sinh từ mẹ từ cha

Sinh từ trời từ đất

Rường cột trải mấy triều

Mềm mại, cương cường, bất khuất

Mà nôm na đồng áng Kẻ Bùng

 

Ngẩng đầu mây trắng Tản Viên Sơn

Cúi nâng phù sa sông Hồng ứa đỏ

Kẻ Nủa kia, sử xanh kia còn đó

Mộ đá ong giản dị nhường này

Mấy trăm năm xanh cỏ xanh cây

Mây Kẻ Bùng dường bay dường thanh thản

 

Cảm hoá kẻ thù ấm tay bầu bạn

Câu thơ đề xuyên mấy trăm năm

Lời thơ dâng bát ngát trăng rằm

Trung Hoa mênh mông, Trung Hoa thán phục

 

Phơ tóc trắng vóc mai mình hạc

Mà mấy nghìn dặm đất nhẹ như không

Mà Quốc thể rạng danh con Lạc cháu Hồng

Dân mấy cõi tụng xưng quan Trạng

 

“Vẻ mặt Người nôm na đồng áng

Ta vẫn gặp đâu đây trong thôn xóm Kẻ Bùng”.

 

LÝ THƯỜNG KIỆT

 

Vang danh Chiêm Thành, Bắc quốc

Hiền hòa giọt giọt mưa xuân

Cơ Xá, Bắc Biên tơ tóc

Lửa đèn rạng rỡ huân công

 

Trải vững ba triều vua Lý

Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông

Kể gì thân mình chớp bể

Phong sương vạn dặm như không

 

Hành binh tiến vào đất giặc

Vang lừng Hịch Lộ bố văn

Như Nguyệt đêm trăng giết địch

Vằng vặc Nam triều nghìn năm

 

Đâu muốn vào cơn binh lửa

Cần chi Chiêm nhục, Tống sờn?

Chỉ thương con đen, dân đỏ

Mà tấc dạ vàng giang sơn

 

Đi trên ánh đao bóng kiếm

Tim thiêng giữ mối cương thường

Suốt một thân phò nghĩa lớn

Thác còn thơm thảo quê hương

 

Chiều mưa xuân mờ cay mắt

Cỏ cây đá sỏi cựa mình

Cửa đền lặng im trầm mặc

Lấm tấm chuông chùa hiền minh.

 

 

NGUYỄN TRÃI

 

Côn Sơn rêu thẳm xanh

Lòng người xanh rêu thẳm

Ba ngàn thước thông reo

Gió khuya về động bóng

 

Ức Trai kia lồng lộng

Ngàn năm ngậm oan khiên

Tơ tóc lìa máu ấm

Vằng vặc sáng đêm đêm

 

Thiên tài sao mơ ngủ?

Công danh tủi nhục cầm

Dòng máu non tơ tóc

Nhỏ buốt mấy trăm năm

 

Hận trời cao chất ngất

Phủ phục kiếp thông xanh

Thương cỏ hoa bằn bặt

Bầu máu thơm sữa nguồn

 

Ta đâu cần bia, bảng

Ơi nọc người thế gian

Trả máu non tơ tóc

Về u oa tiếng đàn.

 

HƯNG ĐẠO VƯƠNG

 

Trọn đời mơ thái bình

Trọn đời cầm gươm trận

Tuyệt không màng ngôi cao

Càng bỏ buông di hận

 

Tay cầm binh lui trận

Chỉ thương người lính thường

Đêm phò vua trăng lạnh

Mà nao lòng quân vương

 

Tiếng quân reo Sát Thát

Chạnh riêng lòng An Tư

Bạch Đằng giang sóng bạc

Còn hồng trong trăng mờ

 

Biên thuỳ vang tiếng hịch

Nam vương lạnh ống đồng

Diên Hồng phơ tóc bạc

Ngày vuông tròn non sông

 

Ba lần đuổi Nguyên Mông

Trần triều thơm sử sách

Người khoan thư sức dân

Như mây trời thanh sạch

 

Riêng nào đâu đất hiểm

Bể dâu lẽ thăng bình

Một lòng vun gốc đức

Mà không màng tử sinh.

 

 

PHẠM NGŨ LÃO

 

Người trong trẻo như sen

Người cương cường như nước

Người trầm mặc như mây

Từ bảy trăm năm trước

 

Tiếng rền vang Sát Thát

Lửa kinh hoàng Chương Dương

Đầu Toa Đô áo phủ

Sóng gầm Hàm Tử Quan

 

Lặng thầm tre đan sọt

Giáo xuyên đùi như không

Mà tung hoành vạn dặm

Vang hịch truyền Quốc công

 

Thân hoành ngang giáo sắc

Trí ngưu đẩu biên thuỳ

Giang san ngày bắt giặc

Gan vàng mối an nguy

 

Vần thơ ngâm ải Bắc

Giảng Võ đường đêm trăng

Đêm binh lui Vạn Kiếp

Se sắt thành Thăng Long

 

Vào chết tìm đất sống

Tên bay lạnh ống đồng

Bận gì kia ước lộc

Chỉ vuông tròn non sông

 

Lỡ đâu làm lợi giặc

Thà chịu tội riêng mình

Lão tướng quân đầu bạc

Còn kinh động Chiêm Thành

 

Ai Lao quỳ voi trận

Đất Chiêm Thành mây bay

Trần triều in sử sách

Bia, bảng còn ghi đây

 

Hưng Yên đất thơm cây

Phù Ủng mang mang gió

Vẳng lời Phạm tướng quân

Xanh trên từng lá cỏ.

 

PVK

Bài viết khác

Tác giả: Nhà thơ Minh Trí

violin amazon amazon greens powder