Nhân sự kiện Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc sang thăm…
“Khái quát văn học Trung Quốc hiện đại ” là một phần của Chuyên đề “Văn học châu Á”, chuyên đề tự chọn của Khoa Ngữ văn ĐHSP Hà Nội 1- tác giả GS.Lê Huy Tiêu. Từ chương 5-8 tác giả viết về Văn học Trung quốc hiện đại. Cụ thể: Chương 5. Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Tào Ngu; Chương 6. Nữ sĩ Băng Tâm và tập thơ Phồn tinh ;Chương 7. Tiểu thuyết đương đại (7.1 Một số chủ đề truyện ngắn đương đại tiêu biểu; 7.2 Tiểu thuyết thời kỳ Đổi Mới và nhà văn Mạc Ngôn; 7.3 Số phận của chủ nghiã hiện thực XHCN ở Trung Quốc và Chương 8. Kim Dung và Quỳnh Giao.
Nhân sự kiện Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc sang thăm và làm việc với Hội Nhà văn Việt Nam và giúp bạn đọc hình dung khái lược một vấn đề văn học Trung Quốc, vanhaiphong.com trích giới thiệu phần : 7.3 Số phận của “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” ở Trung Quốc. Do nội dung dài, chúng tôi trích đăng những vấn đề cơ bản nhất của phần chuyên đề này*
Vanhaiphong.com
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, văn học và lý luận văn nghệ Liên Xô, đã bắt đầu xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, nhưng mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc mới tiếp nhận toàn diện lý luận văn nghệ Liên Xô. Mao Trạch Đông từng nói: “Đảng cộng sản Liên Xô là người thầy tốt nhất của chúng ta, chúng ta cần phải học tập họ” (Mao Trạch Đông tuyển tập, T.4, 1991, tr.148). Chu Dương (1) cũng nói: “Đi theo con đường của người Nga, chính trị và cả văn học nghệ thuật cũng thế” (Nhân dân nhật báo.11-11-1953).
Học tập toàn diện lý luận của Liên Xô, người Trung Quốc đã học được ở văn học Xô Viết nhiều thứ: Quan điểm văn học phải “phục vụ nhân sinh”, “Văn học là nhân học”, quan điểm coi trọng việc dùng phản ánh luận của Lênin để giải thích các hiện tượng văn học, v.v… Những điều đó giúp cho lý luận văn học Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở duy vật biện chứng. Đó là ảnh hưởng tích cực, còn ảnh hưởng tiêu cực cũng có nhiều. Những lý luận văn nghệ xã hội dung tục và tả khuynh, đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (viết tắt là CNHTXHCN) đã làm cho văn học Trung Quốc có thời kỳ ngừng trệ, kém phát triển .
Đến thập niên 40 thế kỷ XX, giới văn học Trung Quốc bắt đầu dịch một số trước tác lý luận đề cao CNHTXHCN của Nhật Bản và Liên Xô. Ví dụ, tháng 4-1940, NXB Quang Minh, Thượng Hải xuất bản cuốn sách Con đường mới của văn học, gồm có 29 bài báo và phát biểu của các học giả trong Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất về CNHTXHCN.
Tháng 10 cùng năm, NXB Hy Vọng cho ra cuốn Bàn về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của học giả Nhật Bản Sâm Sơn Khải. Từ 1949 trở đi một số trước tác của học giả Liên Xô cũng được dịch, ví dụ cuốn Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của Vaxinhiép, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Liên Xô của Têrasenkôp, v.v… Các cuốn sách trên còn trích đăng “Điều lệ” của Hội Nhà văn Liên Xô và một số bài viết của Phadiev bàn về CNHTXHCN. Tuy vậy, thời kỳ này, người Trung Quốc vẫn chưa coi CNHTXHCN là khẩu hiệu và lá cờ của mình. Tháng 5-1939, trong buổi kỷ niệm một năm thành lập Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn, Mao Trạch Đông còn đề xuất “Chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”. Lúc bấy giờ, giới văn học Trung Quốc còn có nhiều cách giải thích khác nhau về CNHTXHCN. Nhà văn Ba Nhân cho rằng con đường và xu thế phát triển văn nghệ Trung Quốc, tức là từ “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật” đến “chủ nghĩa lãng mạn” rồi đến “CNHTXHCN” (Trận địa văn nghệ kỳ 7, quyển 4 tháng 2-1940). Theo ông thì CNTHXHCN là phương hướng phát triển của văn học Trung Quốc. Lâm Hoán Bình thì cho rằng, “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”, thực chất là “CNHTXHCN” (Văn học nguyệt báo 9-1940). Các giải thích này đương thời chưa được mọi người thừa nhận. Ví dụ, nhân kỷ niệm một năm bài Bàn về chủ nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông, Chu Dương căn cứ vào ý kiến của Mao Trạch Đông bàn về tính chất và nhiệm vụ lịch sử của xã hội Trung Quốc, mô phỏng cách đề xuất của Liên Xô về CNHTXHCN mà nêu ra khái niệm “chủ nghĩa hiện thực dân chủ mới” (Chu Dương Văn 37 tập. T.1, P324). Trong “Bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An” (1942) của Mao Trạch Đông nói về phương pháp sáng tác như sau: “chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô sản”. Sau này Chu Dương trong một số bài viết cũng như bài nói chuyện, ông dùng những khái niệm như “chủ nghĩa hiện thực cách mạng” “chủ nghĩa hiện thực cách mạng mới”, v.v. Mãi đến sau năm 1949, giới văn học Trung Quốc mới bắt đầu coi CNHTXHCN là tiêu chí cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tháng 5-1951 trong một lần nói chuyện ở Sở nghiên cứu văn học trung ương, Chu Dương nhấn mạnh: “Chúng ta cần phải học tập nước ngoài, đặc biệt là học tập Liên Xô. Văn học nghệ thuật của CNHTXHCN là món ăn tinh thần có ích nhất cho nhân dân và quảng đại thanh niên Trung Quốc. Chúng ta từ nay trở đi phải tăng cường công tác dịch thuật và giới thiệu” (Chu Dương văn tập. T.2, P61). Tháng 5 năm sau, Chu Dương nói rõ hơn: “Phương pháp mới của nghệ thuật cách mạng – CNHTXHCN nên trở thành thước đo cao nhất của phương pháp sáng tác của chúng ta” (Chu Dương văn tập. T.2, P145). Như vậy là Chu Dương không còn chủ trương phương pháp “duy vật biện chứng” như thời 1933 nữa, giờ đây ông dứt khoát nêu ra “CNHTXHCN” là phương pháp cơ bản trong sáng tác văn học Trung Quốc. Tháng 12- 1952, trong một bài báo viết cho báo Ngọn cờ của Liên Xô, Chu Dương thông báo cho giới văn học Liên Xô biết rằng: “Sau khi theo đuổi văn học Liên Xô, văn học của chúng tôi đã bắt đầu đi lên con đường “CNHTXHCN”, chúng tôi sẽ tiếp tục tiến lên trên con đường này” (Chu Dương văn tập. T.2, P191). Chủ trương này của Chu Dương không phải là ý kiến cá nhân của ông mà là đại biểu cho giới lãnh đạo văn nghệ của Trung Quốc lúc bấy giờ. Tháng 3-1953, trong “Phương án công tác cải tổ Hiệp hội văn học toàn quốc và tăng cường lãnh đạo sáng tác văn học” của Hội nghị mở rộng lần thứ 6 của Uỷ ban chấp hành Hiệp hội nhà văn toàn quốc thông qua, đã quyết định kết hợp với việc học tập phương pháp sáng tác “CNHTXHCN” là thảo luận các vấn đề tư tưởng sáng tác văn học. Thế là, các tổ chức văn học từ Trung ương đến địa phương đều tiến hành học tập phương pháp sáng tác mới này.
Tháng 9-1953, trong Đại hội đại biểu lần thứ 2 của những người làm công tác văn học nghệ thuật Trung Quốc, Chu Dương chính thức tuyên bố “Chúng ta coi phương pháp sáng tác HTXHCN là chuẩn tắc cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật của chúng ta”. Và lần đầu tiên ông khẳng định: “Sau bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An trở đi, văn học nghệ thuật của chúng ta là “văn học nghệ thuật của CNHTXHCN” và trong hoạt động sáng tác của Lỗ Tấn ở thời kỳ sau, ông “đã trở thành người đi đầu, người đại biểu của CNHTXHCN” (Chu Dương văn tập. T.2, P249, 247). Cũng ở đại hội trên, Mao Thuẫn cũng coi nguyên tắc CNHTXHCN “là yêu cầu cơ bản đối với nhà văn Trung Quốc”, và chỉ ra “một nhà văn hiện thực chủ nghĩa phải đòi hỏi mình giỏi quan sát phương hướng phát triển của cuộc sống, mầm mống của sự vật mới, giỏi biểu hiện cuộc sống từ trong sự phát triển cách mạng. Một chức trách của nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là cần phải biểu hiện sự vật ngày nay xem ra chưa phải là tồn tại phổ biến, nhưng ngày mai nó sẽ trở thành phổ biến”. Cần chú ý rằng, câu “chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô sản” ở trong Bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An in lần đầu thì đến năm 1954 được in lại trong Mao Trạch Đông tuyển tập. T.3 đã sửa lại là: “Chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Từ đấy trở đi, các ấn phẩm sau này của Mao Trạch Đông, hễ có bài đó, thì đều đổi thành như thế.Trong khi giới văn học Trung Quốc đang ra sức tuyên truyền và quán triệt CNHTXHCN thì giới văn học Liên Xô đã có người không tán thành khẩu hiệu này. Báo chí Trung Quốc lúc bấy giờ có giới thiệu động thái mới này của giới lý luận văn học Liên Xô, nhưng họ vẫn không thay đổi xu hướng kiên trì CNHTXHCN. Bằng chứng là người ta lấy lý thuyết về CNHTXHCN để phê phán Hồ Phong. Lâm Mạc Hàm nói, một trong những sai lầm của Hồ Phong là “không thấy được sự khác nhau giữa chủ nghĩa hiện thực và CNHTXHCN, không hiểu được ai theo “CNHTXHCN” đầu tiên là phải có “lập trường giai cấp công nhân và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa” (Văn nghệ báo số 2-1953). Chu Dương cũng chỉ ra: “Công thức của CNHTXHCN là quan điểm cơ bản, là cống hiến lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin đối với phương pháp của văn học nghệ thuật… Chủ nghĩa hiện thực nên bao quát ở trong chủ nghĩa Mác, chỉ có chủ nghĩa Mác mới có thể lý giải đầy đủ nhất chủ nghĩa hiện thực”.
Nhưng, trước và sau năm 1956, tình hình chính trị và văn học xã hội Liên Xô có biến động, tư tưởng chống “tô hồng hiện thực” và đề xướng “can dự cuộc sống” của giới lý luận văn học Liên Xô ảnh hưởng đến văn đàn Trung Quốc. Chu Dương – người đầu tiên giới thiệu CNHTXHCN ở Trung Quốc – tháng 8-1956 trong một lần nói chuyện ở cuộc họp Hội nhà văn Trung Quốc, ông đưa ra ý kiến mới. Một mặt ông vẫn tiếp tục nhấn mạnh “khẩu hiệu CNHTXHCN này không nên bỏ, nó là phương hướng phát triển nghệ thuật nhân dân, tại sao chúng ta lại phản đối phương hướng đó”. Mặt khác, ông lại cho rằng: “Việc học tập CNHTXHCN, quyết không nên sa vào vũng bùn giáo điều chủ nghĩa”. Ông chỉ ra, những nhà văn bài xích dòng văn học phi XHCN, và có quan hệ không bình thường với những dòng văn học khác ngoài CNHTXHCN là biểu hiện giáo điều và công thức. Chu Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta nên coi CNHTXHCN là một phương hướng mới, chứ không được coi nó là giáo điều hoặc giả coi là một công thức trong sáng tác. Nếu không, sẽ có nguy hiểm lớn” (Chu Dương văn tập. T.2, P408-409).Nếu như trong lý luận của Chu Dương còn mơ hồ, mâu thuẫn, thì một số nhà lý luận khác của Trung Quốc đã bộc bạch sự hoài nghi đối với định nghĩa của CNHTXHCN. Tháng 6- 1956 Tần Triệu Dương có bài Chủ nghĩa hiện thực – con đường rộng mở, Chu Bột có bài Bàn về chủ nghĩa hiện thực và sự phát triển của nó ở thời kỳ xã hội chủ nghĩa, Lưu Thiệu Đường có bài Sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong thời đại xã hội chủ nghĩa, v.v... Nội dung của những bài báo trên nêu ra ba vấn đề: Một là, định nghĩa nhấn mạnh “việc nghệ thuật miêu tả chân thực, lịch sử cụ thể, cần phải kết hợp với nhiệm vụ dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa để cải tạo giáo dục nhân dân lao động về mặt tư tưởng”, như vậy là cho tinh thần xã hội chủ nghĩa tồn tại ngoài sáng tác văn nghệ, nó chỉ là một khái niệm chính trị trừu tượng ở trong đầu óc nhà văn, chứ không phải là tồn tại một cách hữu cơ trong cuộc sống, không phải là tồn tại một cách hữu cơ trong tính chân thực và tính lịch sử cụ thể của miêu tả nghệ thuật, mà là sự “kết hợp” giả tạo từ bên ngoài. Chính vì vậy, về mặt lý luận đã dẫn đến những luận điểm sai lầm như dùng quan điểm chính trị thay thế thế giới quan, dùng quan điểm chính trị thay thế phương pháp sáng tác, dùng tính chính trị thay thế tính chân thực, dùng phân tích chính trị thay thế phân tích nghệ thuật. Hai là, định nghĩa trên không xuất phát từ nghệ thuật, coi nhẹ địa vị then chốt của vấn đề điển hình hoá ở trong văn học hiện thực chủ nghĩa. Trong các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực ở trong lá thư của Mác gửi Hecơnex lại coi việc điển hình hoá là trung tâm. Chính vì vậy, trong phê bình văn học đã xuất hiện hiện tượng mượn cớ tăng cường chức năng tuyên truyền chính trị mà phủ định đặc trưng nhân học của văn học, coi con người chỉ là cái loa tuyên truyền chính trị. Ba là, có người nói “CNHTXHCN” là “chủ nghĩa hiện thực khẳng định” để phân biệt với chủ nghĩa hiện thực phê phán của giai cấp tư sản chuyên chú trọng phê phán, như vậy là trong sáng tác và phê bình của văn học hiện thực XHCN không thừa nhận nhiệm vụ bộc lộ và phê phán những hiện tượng xấu xa tội ác, từ đó dẫn đến “lý luận không xung đột”, “tô hồng cuộc sống”.
Những nhà lý luận Trung Quốc nghi ngờ CNHTXHCN đều hoàn toàn đồng ý với ý kiến phản bác của Ximonov phát biểu ở trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ hai, đồng thời bổ sung mấy điểm bất hợp lý của định nghĩa về CNHTXHCN. Họ viết: từ khi định nghĩa này được xác định đến nay, chưa có ai giải thích được chính xác, thường hôm qua coi là giải thích xác đáng thì hôm nay đã bị người khác lật đổ. Qua khảo sát đặc trưng văn học hiện thực chủ nghĩa, họ cho rằng, “từ đặc điểm bên trong của văn học hiện thực chủ nghĩa để phân chia văn học của hai thời đại cũ và mới thành một đường ranh giới tuyệt đối khác nhau là rất khó khăn”. Do đấy, Tần Triệu Dương đề nghị “gọi chủ nghĩa hiện thực trước mắt là chủ nghĩa hiện thực của thời đại xã hội chủ nghĩa”. Ông còn nói: “Sở dĩ tôi nghiên cứu khuyết điểm của định nghĩa CNHTXHCN là vì định nghĩa này đã đẻ ra một số tư tưởng dung tục, ở Trung Quốc chúng ta còn kết hợp với một số tư tưởng dung tục khác tạo thành sự gò bó giáo điều trong sự nghiệp văn học. Tư tưởng dung tục này là sự giải thích lý giải dung tục hoá đối với “Bài nói chuyện” của Mao Trạch Đông và biểu hiện chủ yếu là ở việc lý giải quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Tần Triệu Dương: Tập tìm đường văn học Nxb. Văn học nhân dân, 1984, P143-144). Như thế có thể thấy, các ông Tần Triệu Dương đã phủ định CNHTXHCN là một phương pháp sáng tác độc lập, và chỉ ra định 40 nghĩa này sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều và lý giải dung tục về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ.
Ý kiến phủ định CNHTXHCN của các ông Tần Triệu Dương bị một số nhà lý luận phê bình khác phản bác. Trương Quang Niên, Hoàng Dược Miên, Tưởng Khổng Minh, Diệp Dĩ Quần, v.v… đều xuất phát từ quan điểm thế giới quan và phương pháp sáng tác là gắn bó chặt chẽ với nhau; coi hạt nhân của khái niệm CNHTXHCN là chủ nghĩa xã hội; dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa để giáo dục nhân dân là sự khác nhau cơ bản giữa CNHTXHCN và chủ nghĩa hiện thực trước đây. Do đó họ cho rằng không thể dùng khái niệm chủ nghĩa hiện thực thời đại xã hội chủ nghĩa để thay thế CNHTXHCN được. Mặc dù ý kiến của các ông Tần Triệu Dương… bị một số người phản bác, nhưng điều đó chứng tỏ giới văn học Trung Quốc chưa có nhận thức nhất trí về khái niệm và định nghĩa CNHTXHCN. Lúc đầu ý kiến qua lại giữa các nhà lý luận phê bình còn được khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở” đảm bảo nên chưa xảy ra chuyện gì gay gắt, nhưng đến năm 1957 nổ ra cuộc “đấu tranh chống phái hữu” thì những ý kiến khác nhau về CNHTXHCN bị quy là cuộc đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ngày 1-9-1957 Nhân dân nhật báo có bài xã luận Đấu tranh bảo vệ đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa phê phán “phần tử phái hữu” có mưu đồ giương cao ngọn cờ viết chân thực để “bộc lộ mặt đen tối của cuộc sống xã hội”. Ngày 16-9, Lục Đinh Nhất, Bộ trưởng bộ tuyên truyền của trung ương Đảng CSTQ, trong cuộc họp mở rộng của tổ đảng Hội nhà văn Trung Quốc nói: “Cho dù “CNHTXHCN” không phải là phương pháp sáng tác duy nhất thì cũng là phương pháp tốt nhất” (Văn nghệ báo số 25-1957) Chu Dương trong bài Phản đối thái độ hư vô chủ nghĩa đối với văn học xã hội chủ nghĩa – trao đổi với đồng chí Lưu Thiệu Đường, khẳng định “bản thân phương pháp sáng tác hiện thực XHCN là tuyệt đối không liên quan gì đến thuyết không xung đột, chủ nghĩa công thức, hiện tượng đơn điệu, dung tục cả” (Văn nghệ báo, số 15-1957). Diêu Văn Nguyên viết bài Văn học hiện thực XHCN là văn học của thời đại cách mạng của giai cấp vô sản – tranh luận với Hà Trực (Tần Triệu Dương) Chu Bột nói dứt khoát là trong lý luận văn học của Trung Quốc đã xuất hiện tư trào xét lại. Ông ta viết: “Trọng tâm của tư trào xét lại chủ nghĩa là “viết chân thực” và nhấn mạnh CNHTXHCN và chủ nghĩa hiện thực trước đây không khác nhau về phương pháp, do đấy CNHTXHCN không thể trở thành trường phái độc lập được” (Tạp chí Nhân dân văn học, số 9-1957). Những người không tán thành ý kiến của Trần Triệu Dương, v.v… nhưng cho định nghĩa CNHTXHCN chưa hoàn thiện cũng bị phê phán là xét lại như Trần Dũng, Vương Nhược Vọng, v.v… Đến 1958 Nxb. Văn nghệ mới cho ra hai tập Bàn về CNHTXHCN gồm 58 bài phê phán. Để bảo vệ CNHTXHCN, Trung Quốc còn cho dịch một số tài liệu của các học giả Liên Xô ủng hộ CNHTXHCN. Ví dụ bài CNHTXHCN – phương pháp sáng tác của nghệ thuật Liên Xô của Trôfimov, v.v.. Năm 1958, ở Trung Quốc xuất hiện phong trào “nhảy vọt”. Quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước Xô-Trung có hiện tượng rạn nứt, nên Mao Trạch Đông không đề xướng CNHTXHCN của Liên Xô nữa, mà đưa ra phương pháp sáng tác mới của riêng mình, đó là sự “kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn” (gọi tắt là “hai kết hợp”). Trong một bài nói chuyện ở Hội nghị Thành Đô của Trung ương Đảng tháng 8-1958, khi bàn đến con đường phát triển của thơ mới Trung Quốc, Mao Trạch Đông nói nội dung của thơ mới nên là “sự thống nhất đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn”.
Cùng năm đó, tháng 4, Quách Mạt Nhược khi trả lời ban biên tập Văn nghệ báo về bài từ Trả lời Lý Thục Nhất – theo điệu Điệp Luyến hoa của Mao Trạch Đông, ông cho rằng bài từ đó là “sự kết hợp điển hình của chủ nghĩa lãng mạn cách mạng và chủ nghĩa hiện thực cách mạng” (Văn nghệ báo số 7-1958. Sau đó ít lâu, Văn nghệ báo số 9-1958 cho đăng một số bài của mấy nhà thơ dưới tiêu đề Sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng. Nhưng những bài viết này chỉ mới bàn đến “Hai kết hợp” ở trong thơ. Cho mãi đến khi tạp chí Hồng kỳ (1.6.1958) đăng bài Dân ca mới mở ra con đường mới cho thơ ca của Chu Dương thì mới chính thức truyền đạt tinh thần của buổi nói chuyện của Mao Trạch Đông nói ở trên và nói rõ ý nghĩa của “Hai kết hợp”. Chu Dương viết: “Đồng chí Mao Trạch Đông nêu ra văn học chúng ta nên là sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng. Đó là khái quát khoa học về kinh nghiệm lịch sử văn học, là chủ trương vô cùng chính xác căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của thời đại trước mắt mà nêu ra. Nó nên trở thành phương hướng phấn đấu của những người làm công tác văn học nghệ thuật” (Chu Dương văn tập. T.3, P5). Như vậy là, khẩu hiệu “Hai kết hợp” không phải Mao Trạch Đông trực tiếp nói ra mà là do Chu Dương truyền đạt ý của Mao Trạch Đông cho giới văn học Trung Quốc biết. Có điều nên chú ý là, khi khẩu hiệu “Hai kết hợp” mới nêu ra, nó chưa thay thế ngay cho CNHTXHCN, do đấy báo chí Trung Quốc từ 1958 cho đến đầu những năm 60 vẫn dùng song song cả hai khẩu hiệu. Họ nói hai phương pháp sáng tác này không mâu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau. Như vậy, ta thấy Trung Quốc không hề để ý đến ý kiến của Ximonov mà càng ngày càng thiên về “Cách mạng” và “tô hồng” nên mới nêu ra “Hai kết hợp”. Trong buổi nói chuyện ở Đại học Bắc Kinh tháng 11-1958, Chu Dương nói: “Chúng ta không phủ định CNHTXHCN, nhưng về hệ thống CNHTXHCN này chúng ta cũng có thể nghiên cứu một chút… Cá nhân tôi cho rằng, cách nêu vấn đề kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng là tương đối toàn diện” (Chu Dương văn tập, T.3, P60). Thời “cách mạng văn hoá” (1960-1976), trong bối cảnh văn học Trung Quốc đoạn tuyệt giao lưu với văn học nước ngoài, thì việc giới thiệu, dịch thuật và bàn về CNHTXHCN gần như rơi vào trạng thái ngưng trệ. Bắt đầu từ cuối những năm 70 – nghĩa là thời kết thúc cách mạng văn hoá – giới văn học khôi phục lại việc dịch và giới thiệu về CNHTXHCN. Năm 1979, Sở nghiên cứu văn học nước ngoài thuộc Viện khoa học Xã hội Trung Quốc cho in tập Những vấn đề CNHTXHCN thập niên 70 – Thảo luận về lý luận “hệ thống mở” của Liên Xô; năm 1981, Nxb. Văn học nước ngoài in cuốn Tập thảo luận về CNHTXHCN của Liên Xô.
Đầu thời kỳ đổi mới, Mao Thuẫn vẫn đề cao CNHTXHCN và cho rằng hai phương pháp sáng tác CNHTXHCN và “Hai kết hợp” là nhất trí, nhưng ông bắt đầu nhắc nhở mọi người: không thể coi “Hai kết hợp” là phương pháp bắt buộc phải tuân theo, Chu Dương bắt đầu có vẻ cởi mở hơn. Tháng 12-1978 trong buổi toạ đàm sáng tác văn học ở Quảng Đông, sau khi nhắc đến “Hai kết hợp”, ông nói: “Bất cứ khẩu hiệu sáng tác nào đều không nên trở thành công thức và giáo điều trói buộc… Chúng ta cần đề xướng phương pháp sáng tác mà chúng ta cho là tốt nhất, đồng thời càng cần phải cổ vũ đa dạng hoá phương pháp sáng tác và phong cách sáng tác, không đòi hỏi nhất luật như nhau” (Chu Dương văn tập. T.5, P178). Ở đây, có điều khác với Mao Thuẫn là ông không nói “Hai kết hợp” và CNHTXHCN là như nhau.
Từ 1980 trở về sau, Chu Dương không nhắc đến khái niệm CNHTXHCN và cũng không nhắc gì đến “Hai kết hợp” nữa, mà chỉ nhấn mạnh “chủ nghĩa hiện thực cách mạng”. Chu Dương nói: “Một thời gian trước đây chúng ta kiên trì cầm chừng con đường sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Thời kỳ Lâm Bưu và “bọn bốn tên” ngang ngược hoành hành, chủ nghĩa hiện thực bị dày xéo hoàn toàn, bây giờ nhấn mạnh lại chủ nghĩa hiện thực là rất cần thiết. Nhưng không phải quay lại trước kia một cách đơn giản, mà nay trong điều kiện mới, hãy lấy tinh thần mới để khôi phục và phát triển chủ nghĩa hiện thực cách mạng” (Chu Dương văn tập. T.5, P211-212). Qua đây có thể thấy áp lực đòi quay về truyền thống hiện thực chủ nghĩa đã ảnh hưởng tới Chu Dương. Từ cuối thập niên 70 trở đi, giới nghiên cứu văn học Liên Xô của Trung Quốc bắt đầu viết bài bình luận về “hệ thống mở của CNHTXHCN” của Liên Xô. Gần như đồng thời, một số nhà lý luận cũng bắt đầu viết bài chất vấn, nghi ngờ “Hai kết hợp”. Ví dụ, bài “Hai kết hợp” có thể trở thành phương pháp sáng tác được không? của Chu Ân Bân (1979); Phương pháp sáng tác “Hai kết hợp” và tư tưởng tả khuynh của Lưu Quang (1980); Nghi ngờ về phương pháp sáng tác “Hai kết hợp” của Đinh Phúc Nguyên (1989), v.v… Những bài văn trên đều gắn “Hai kết hợp” với tư tưởng tả khuynh và phủ định “Hai kết hợp” là một phương pháp sáng tác tồn tại độc lập. Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình chính trị xã hội Liên Xô có biến động, khiến cho giới văn học của nước này dần dần công khai hoài nghi, phê phán, phủ định CNHTXHCN. Giới báo chí Trung Quốc kịp thời giới thiệu động thái này. Ngày 22/3/1989 Báo văn học Liên Xô lại công bố một tin mới: Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 9 vừa thông qua Điều lệ mới. Điều lệ viết: Hiệp hội cho rằng “tự do sáng tác là điều kiện không thể thiếu để phát triển văn học”. Hiệp hội “sẽ như trước đây ủng hộ phương pháp hiện thực chủ nghĩa và những tác phẩm có lý tưởng xã hội chủ nghĩa”. Điều đặc biệt là 43 trong điều lệ mới khi đề cập đến phương pháp sáng tác, tránh né khái niệm CNHTXHCN.
Như vậy là văn học Liên Xô cuối cùng đã từ bỏ khái niệm và định nghĩa về CNHTXHCN. Gần như đồng thời, giới văn nghệ Trung Quốc cũng lên tiếng phủ định CNHTXHCN. Ý kiến phủ định quyết liệt là của nhà nghiên cứu Dương Xuân Thời. Ông viết hai bài liền. Bài thứ nhất có tên là Suy nghĩ lại về CNHTXHCN đăng trên Văn hối báo ngày 12-1-1989, bài thứ hai có tên làPhê phán CNHTXHCN đăng trên Văn học bình luận, số 2-1989. Cả hai bài đều nhất trí cho rằng: “CNHTXHCN không phải là tư trào văn học có tính tự phát, nó không có cơ sở tự nhiên trong sáng tác văn học, mà là một mô thức văn học do kết cấu quyền lực chính trị dựa theo ý chí quốc gia mà chế tác ra”, tác giả cho rằng “thực tiễn lịch sử của CNHTXHCN có tính phủ định, nó làm cho văn học bị hạ thấp thành thứ phụ thuộc của hình thái ý thức, thành con điếm của chính trị”. Ở Liên Xô, nó cắt đứt truyền thống hiện thực chủ nghĩa lớn lao của nước Nga từ thế kỷ XIX trở lại đây, nó tạo ra một loạt tác phẩm hiện thực giả tạo, dẫn đến sự suy thoái của văn học thời Stalin. Ở Trung Quốc nó cắt đứt truyền thống hiện thực chủ nghĩa thời Ngũ tứ, nó đánh mất chủ nghĩa hiện thực vốn rất yếu ớt của Trung Quốc “Việc phê phán tư tưởng Hồ Phong, thực chất là CNHTXHCN đã bóp chết lý luận hiện thực chủ nghĩa của thời Ngũ tứ”. Theo ông, cái gọi là CNHTXHCN hoặc “Hai kết hợp”, thực chất là một loại “chủ nghĩa cổ điển mới”, tức là “nhấn mạnh việc khống chế của hình thái ý thức đối với văn học (Văn nghệ tòng thuộc chính trị), lấy lý tính để trang sức giả tạo cho hiện thực (nhấn mạnh tính lý tưởng và chủ nghĩa lãng mạn). Nó vừa làm mất tinh thần phê phán của chủ nghĩa hiện thực lại vừa không có tinh thần phản kháng của chủ nghĩa lãng mạn. Tác giả cho rằng: “chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX và chủ nghĩa hiện thực thời Ngũ tứ là chủ nghĩa hiện thực chân chính. Chỉ có thể trên cơ sở này phát triển chủ nghĩa hiện thực chứ không thể dưới tiền đề phủ định cơ sở này mà tạo ra một CNHTXHCN khác, làm như vậy chỉ có thể chủ nghĩa hiện thực giả tạo”. Ý kiến của Dương Thời Xuân bị một vài nhà lý luận bảo thủ phản bác lại, nhưng họ lại nêu ra một ý kiến mới. Ví dụ nhà nghiên cứu Trần Liêu dưới tiền đề khẳng định CNHTXHCN, ông phủ định “Hai kết hợp”. Ông cho rằng “Hai kết hợp” xuất hiện trong bối cảnh “chống phái hữu” đang mở rộng, “đại nhảy vọt” đang dâng cao và những người theo chủ nghĩa giáo điều cho CNHTXHCN đã lỗi thời và dùng “Hai kết hợp” để thay thế CNHTXHCN, kết quả là tạo ra hàng loạt tác phẩm hiện thực giả tạo và lãng mạn rẻ tiền. Do đấy Trần Liêu cho rằng cần triệt để phủ định “Hai kết hợp” và kiên trì CNHTXHCN (Văn hối báo 3-3-1989).
Tiếng nói của Trần Liêu rơi vào lạc lõng, chẳng ai đồng tình. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, dường như không ai coi CNHTXHCN là phương pháp cơ bản của sáng tác văn học Trung Quốc nữa. Sự cáo biệt CNHTXHCN cũng thể hiện ở các giáo trình lý luận văn học ở các trường Đại học. Giờ đây người ta chỉ nói đến chủ nghĩa hiện thực còn những khái niệm “kết hợp chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn cách mạng” hoặc CNHTXHCN đã biến mất khỏi các giáo trình lý luận văn học.
Ghi chú: Chúng tôi đã lược bớt các đoạn mang tính dẫn chứng trên báo, tạp chí và các đoạn viết về Văn học Xô Viết. Những phần in nghiêng do người biên tập thực hiện nhằm giúp bạn đọc dễ nhận thấy quá trình biến đổi của “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” trong văn học Trung Quốc.
NĐM