Gió sớm làm bay tung mái tóc bạc của Anna Dombrovska. Những ai có mặt ngày hôm ấy đều quả quyết rằng mặt trời buổi sớm và niềm vui đã biến bà lão thành một cô gái tóc vàng, giống hệt cô Anna ngày xưa….
Gió sớm làm bay tung mái tóc bạc của Anna Dombrovska. Những ai có mặt ngày hôm ấy đều quả quyết rằng mặt trời buổi sớm và niềm vui đã biến bà lão thành một cô gái tóc vàng, giống hệt cô Anna ngày xưa.
Trên một chuyến xe lửa đường dài Moskva-Warszawa vào tháng 5 năm 1994 tôi đã được nghe câu chuyện này. Nó làm tôi xúc động.
Tôi ở lại Warszawa một tuần. Ông bạn đồng hành tình cờ gặp trên chuyến tàu nọ đã giúp tôi lên một lộ trình tuyệt vời để có thể thăm viếng trong một thời gian ít ỏi những nơi đáng đến nhất ở Ba Lan. Mới gặp nhau mà ông đối với như bạn quen biết lâu ngày, thật dễ mến.
Trại tập trung Auschwitz-Birkenau, nơi phát xít Đức đưa vào lò thiêu khoảng 2 triệu rưởi người đủ mọi nòi giống và quốc tịch, để lại trong tôi ấn tượng mạnh nhất. Sau khi thăm nơi này, tôi lại càng bị thôi thúc phải ghi lại câu chuyện ông bạn Ba Lan kể.
Vào thời gian xảy ra câu chuyện, Jenny Baker, mới lên chín. Đó là một con bé có mái tóc vàng óng, đôi mắt thiên thần, và giọng nói liến thoắng. Căn cứ vào nội dung và cách kể của ông bạn, cô bé hẳn có một vị trí quan trọng lắm trong đời ông. Nhưng ông lại không nói gì về chuyện ấy.
Jenny là học trò duy nhất của bà lão Anna Dombrovska, thầy dạy dương cầm ở Chlebovo. Trước chiến tranh bà Dombrovska cũng chẳng có nhiều học trò – Chlebovo là một làng nghèo. Từ ngày chiến tranh nổ ra, mấy đứa học trò ít ỏi của bà đã theo nhau bỏ học tất.
Trước khi học bà Dombrovska, Jenny học ông Hesselmann, tu sĩ chơi phong cầm ở nhà thờ, nhưng vì nó yếu tay trái, nhất là hai ngón út, nên ông chê, không để tâm dạy nó. Cho tới khi nhận ra nơi con bé một tài năng âm nhạc tương lai thì Hesselmann bị quân Đức bắt đưa đi trại tập trung. Ông là người Do Thái.
Anna Dombrovska ở một mình trong ngôi nhà tuềnh toàng của tổ tiên để lại, nằm giữa một khu vườn rộng đầy cỏ xước. Trong ngôi nhà rách chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc dương cầm Ý cổ lỗ. Ptisek, người Tiệp, làm nghề lên dây đàn thuê cho những gia đình khá giả khắp một vùng Lubuzkie quả quyết rằng đây là cây đàn hay nhất trong những cây đàn mà ông từng gặp. “Người Ý ở Cremona, các vị phải biết, không phải chỉ giỏi làm vĩ cầm như gia đình Antonio Stradivari. Dương cầm Cremona cũng là thứ không chê vào đâu được”, ông Ptisek nói thế. Hiểu biết về nhạc cụ ở Chlebovo không ai sánh được với Ptisek. Trong nghề lên dây đàn dương cầm người Tiệp là những chuyên gia thượng thặng.
Anna Dombrovska không coi cây đàn quý của bà như một tài sản. Bà coi nó như một sinh vật. Cây đàn đã nhiều tuổi nhưng thanh âm vẫn tốt, có phần còn hay hơn cả lúc Anna Dombrovska mới có nó, cũng lại theo nhận xét của Ptisek. Ông lão người Tiệp sống lâu ở Chlebovo nên biết rõ cuộc đời Anna Dombrovska. Ông thương bà lão. Lên dây đàn cho bà không bao giờ ông lấy tiền.
Anna Dombrovska lớn lên trong làng, cả tuổi trẻ sống ở Warszawa, nhưng số phận hẩm hiu đã không cho bà được hưởng hạnh phúc. Tình yêu không đến, thời gian trôi đi, cô gái không mấy xinh đẹp rồi trở thành bà lão cô độc. Kể về bà Dombrovska, ông bạn tôi triết lý: “Chúa rất công bằng. Nếu ai đó không được đẹp trong tuổi trẻ thì họ sẽ đẹp trong tuổi già. Bà Dombrovska rất đẹp lão. Như bà tiên trong cổ tích vậy”.
May cho Anna Dombrovska – âm nhạc giữ cho bà nguyên vẹn tính hồn nhiên, vô tư lự. Về già bà không trở thành khó tính khó nết như thường thấy ở những bà lão không gia đình. Bà yêu mến hết thẩy mọi người trong làng, cho dù họ chẳng xứng với tình yêu ấy. Người đời luôn làm phiền bà, họ không để bà yên, không cho phép bà được sống theo ý mình. Cũng không phải là họ chỉ đối xử với riêng bà như vậy – trong cuộc sống vất vả con người có xu hướng cắn xé nhau, họ tìm thấy niềm vui ích kỷ trong sự làm cho nhau đau. Mà khốn nạn, Anna Dombrovska đâu có muốn gì ở họ?!
Ngày cô sinh viên Anna tốt nghiệp học viện âm nhạc và lấy chồng cũng là ngày cô hiểu rằng những ước mơ thời niên thiếu của cô chỉ là mây khói. Người chồng – một tài năng âm nhạc đích thực, nhưng lại không biết mình là ai, đang ở đâu. Trong sự quá nôn nóng đòi được mọi người công nhận mình ngay lập tức nhưng lại không được như ý, anh chồng biến gia đình mình thành địa ngục. Anh vùi đầu trong rượu, đổ mọi thất bại của anh lên đầu vợ, và Anna chỉ còn biết khóc thầm. Hai người gấu ó nhau trong cảnh sống bữa nay lo bữa mai, đến cả tiền mua hai tấm vé nghe hoà nhạc cũng không có.
Sau khi chôn người chồng chết trẻ vì bệnh thì ít mà vì tuyệt vọng thì nhiều, bà có cảm giác như chôn chặt một lần cho mãi mãi mơ ước của mình.
Anna Dombrovska xách va li rời Warszawa, trở về Chlebovo.
Tất cả những gì còn lại trong thời gian ở thủ đô cộng với tiền của bố mẹ để lại chỉ đủ cho bà mua được chiếc dương cầm của một điền chủ phá sản.
Từ đó Anna Dombrovska sống bằng nghề dạy đàn cho trẻ. Bà mến những đứa bé trong thôn. Chúng hồn nhiên hơn trẻ con thành phố. Chúng trả cho bà bằng tình yêu chân thực. Bà cảm thấy hạnh phúc với lũ trẻ. Bà từ chối mọi lời cầu hôn. Sau cuộc hôn nhân bất toại, bà tránh xa đàn ông. Họ làm bà sợ hãi. Hạnh phúc với lũ trẻ không phải hạnh phúc gia đình, nhưng là hạnh phúc thật. Ngôi nhà nhỏ bé của bà trở thành thánh đường âm nhạc ở Chlebovo. Nhiều đứa trong số học trò của bà được nhận vào dàn đồng ca nhà thờ.
* *
*
Đùng một cái, phát xít Đức tấn công Ba Lan.
Chebovo ở gần biên giới, dân cư xôi đỗ, người Đức, người Ba Lan ăn chung ở đụng chẳng ai nhớ đã bao đời, không có sự phân biệt. Đùng một cái, quân phát-xít tràn tới là những người làng gốc Đức bỗng vác mặt lên, coi hàng xóm Ba Lan như rác. Mới đấy họ còn kính cẩn ngả mũ chào Anna Dombrovska, nhân vật đáng kính của cả Chlebovo, nay khi đi ngang họ làm như không nhìn thấy bà. Nói cho ngay, họ cũng còn dành cho bà một chút xíu chiếu cố so với những người Ba Lan khác – chẳng gì con cái họ cũng từng học bà.
Anna Dombrovska đau lòng nhìn những đứa học trò cũ của bà trong bộ quân phục phát xít, ném tay về phía trước trong tiếng gầm gừ “Heil Hitler!”. Chúng lạnh lùng xả súng vào những người Ba Lan chạy trốn trong những cuộc càn quét như săn thú rừng. Để tiếp tục cuộc tàn sát những người thuộc nòi hạ đẳng theo lệnh Quốc trưởng chúng còn đi tới tận quê hương của Tchaikovsky, Moussorsky, Glinka… mà chúng từng yêu mến. Bà giận chúng, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn bà vẫn không ngơi hy vọng một lúc nào đó chính Beethoven vĩ đại sẽ làm cho lương tri chúng thức tỉnh. Bà lão tin vào sức mạnh của thần thánh của âm nhạc ngang với tin Chúa. Bà gửi gắm những lời cầu nguyện của mình vào những phím dương cầm.
Thế rồi bà cũng chẳng còn đứa học trò nào để mà dạy. Chiến tranh ngự trị trên thôn làng biến âm nhạc thành đồ xa xỉ. Chỉ còn lại thứ âm nhạc ca ngợi tên đồ tể vĩ đại và những ác quỷ mà nó nuôi dạy. Ai có thể gọi thứ âm thanh bẩn thỉu đó là âm nhạc?
Không có học trò, Anna Dombrovska sống bằng tình thương của những người Ba Lan bị khinh rẻ và vài người Đức tốt bụng còn sót lại trong làng.
Henrich Baker, cha của Jenny, giáo viên tiểu học, là bạn của bà. Ít tuổi hơn nhiều, nhưng ông tự coi mình là đồng nghiệp với bà vì có thời ông cũng chơi violon trong nhà thờ. Trước chiến tranh, ông thường ghé nhà bà nghe bà đàn, chuyện gẫu với bà về âm nhạc, về hội họa, và mọi thứ mà ông yêu thích. Ông giáo gày còm, lưng gù, miệng không bao giờ rời cái tẩu làm bằng gỗ mơ, được bà lão đón tiếp như khách quý. Nay thì thỉnh thoảng ông mới dám ghé qua, giấu giấu giếm giếm, vội vã mang cho bà chút thức ăn rồi quay lui, không dám ngồi lại lấy dăm phút.
Chiến tranh cứ mỗi năm lại ngốn nhiều sinh mạng của nước Đức ít dân. Rồi cũng đến lượt Henrich Baker phải từ giã ngôi trường làng quen thuộc để lên đường chiến đấu cho Tổ quốc Đức và Quốc trưởng. Nhiều người bị cận thị nặng, thọt chân, khoèo tay, cũng bị động viên vào đội quân thống trị thế giới đang teo tóp dần. Tin tức chiến sự với những khúc quân hành ngày một kém hùng hồn.
Trước ngày lên đường, Henrik Baker đến gặp Anna Dombrovska và ủy thác đứa con gái duy nhất của ông cho bà.
– Jenny là niềm hy vọng cuối cùng của tôi. Cháu cần được dạy dỗ để thành người. Xin cụ hãy vì tôi mà nhận cháu – Henrich đặt bàn tay lên bàn, lật đi lật lại chiếc mũ sắt của lính, người cứng đơ trong bộ quân phục bó sát, mắt nhìn xuống, ấp úng – Vâng, xin cụ hãy vì tôi mà thương cháu….
– Tôi chỉ biết dạy đàn… – Anna Dombrovska nhìn thẳng vào mắt ông bạn cựu giáo viên nay trở thành tân binh Baker. Từ lâu bà đã luyện cho mình thói quen ngờ vực những bộ mặt người trong thứ y phục này, biết đâu rằng sau nó chả là một cái mõm thú hoặc đang trở thành như thế – Ông biết đấy, tôi không am hiểu cái gì khác ngoài âm nhạc…
– Xin cụ hãy tin tôi. Như cụ đã biết tôi nhiều năm – Henrich cúi mặt xuống – Cháu cần được dạy dỗ thành người. Cụ đừng nhìn tôi như vậy – bộ quần áo này đâu có phải do tôi chọn.
Ông giáo đứng lên, cúi mình đặt một cái hôn kính cẩn lên bàn tay nhăn nheo của bà lão. Một giọt nước mắt rơi xuống tay bà. Bà coi giọt nước mắt đó là học phí đầu tiên của người cha trả cho đứa con, và bà cảm động hôn lên trán Henrich:
– Ông yên tâm. Chúa che chở cho ông.
Từ hôm đó Jenny trở thành học trò của bà lão. Như người chồng, bà Mathilda Baker, người gày xác ve, thỉnh thoảng lại lén lút mang sang cho bà một ít thực phẩm hiếm hoi mà cánh vợ lính được mua. Bà lão không từ chối, nhưng khi nào Mathilda cho nhiều hơn thì bà lại xẻ cho hàng xóm. Người già chẳng cần ăn nhiều.
Anna Dombrovska giữ lời hứa với Henrich Baker. Bà không chỉ dạy đàn, mà còn dạy Jenny học chữ, kể cho cô bé nghe những chuyện cổ tích của Andersen. Những câu chuyện vô hại cũng phải kể khe khẽ, vừa đủ nghe, sau giờ học. Chính quyền quốc xã sợ hãi và căm thù tất cả những gì có thể động tới chỗ phạm của nó. Mà có chuyện cổ tích nào lại không dạy người ta thương yêu nhau, tin ở cái thiện cuối cùng sẽ thắng cái ác?
Bà lão không ngạc nhiên khi được tin Henrich Baker bị bắt. Theo lời thiên hạ đồn thì ông có dính dáng tới chuyện gì đó chống lại Quốc trưởng. Không ai được biết tội chống lại quốc trưởng của Henrich là thế nào. Chắc không phải là một âm mưu gì ghê gớm, nhất là với ông cựu giáo viên hiền lành mà bà từng biết, bà lão nghĩ. Nếu không, Henrich Baker đã bị bắn ngay lập tức. Hẳn ông rơi vào trại tập trung như muôn vàn người khác thôi – kẻ thì do có lẫn chút máu Do thái, kẻ thì vì bất tuân chính quyền, hoặc trong lúc say rượu vô tình xúc phạm Quốc trưởng.
Ông bưu tá Willi Bauer, cũng người Đức, nhưng là một “người Đức tốt”, thì thào với bà rằng dường như Henrich Baker có liên lạc với những người kháng chiến Đức và Ba Lan.
– Tôi thương họ – ông bưu tá già thở dài, nhấm nháp từng ngụm nhỏ cà phê đại mạch khi rẽ vào thăm bà bạn già – Nói riêng với cụ vậy.
Ông cũng có tâm sự buồn. Càng ngày ông càng muốn bỏ nghề chạy thư. Đâu còn như những ngày xưa, khi ông phóng xe băng băng qua các xóm thôn với chiếc túi vải căng phồng. Tiếng chuông xe của ông đã trở thành thân quen với mọi nhà. Người ta biết ông bưu tá đã về tới thôn mình, xóm mình, khi nghe tiếng chuông lanh lảnh và tiếng đàn ngỗng thả rông đột ngột kêu thất thanh. Với những cô gái mặt ỉu xìu vì chậm có thư của người yêu, ông an ủi họ, với nụ cười hiền hậu, rằng mai chắc có thư đấy. “Bưu điện cũng chỉ là một bộ máy, các cô gái ạ, nó có thể chậm và tệ hơn, nó có thể nhầm”, ông nói. Những bà lão nhận thư của chồng con đi làm phương xa bao giờ cũng nèo ông vào chơi bằng được để đãi ông ly rượu táo cất lấy hoặc tách cà phê.
Đó là cái ngày xửa ngày xưa chưa xa. Bây giờ ông lão là kẻ đưa thư của thần chết. Những bức thư tình hiếm hẳn. Thay vào đó là giấy gọi đi “làm việc” của cơ quan an ninh Gestapo, giấy gọi nhập ngũ, giấy thu đảm phụ quốc phòng… Nhà nước là bộ máy cai quản tất cả mọi người, nhưng không có trách nhiệm với một ai. Tiếng chuông xe đạp của ông nay chỉ báo điềm gở. Giấy báo tử đến với mọi nhà như những cánh quạ. Người ta thở phào khi nghe tiếng chuông ma quỷ của ông lão đi ngang mà không dừng lại.
– Cái nghề khốn kiếp! – Willy Bauer cuộn điếu thuốc lá sâu kèn, lầu bầu nói với Dombrovska – Hôm qua lại có hai giấy báo tử nữa, bà ạ. Một cái từ trại tập trung Bukhenvald. Thằng Iurek vậy là chết rồi.
– Yurek nào?
– Yurek con bà Khodotovska ấy. Nó bị đưa sang Đức làm việc, rồi sau đó thế nào, có trời biết…
– À, Yurek. Tôi nhớ ra rồi. Thằng bé có giọng tenor hay lắm – bà Anna Dombrovska nói giọng của người bị ngạt mũi và lấy khăn tay thấm đôi mắt khô héo – Ấm. Đầy nhạc cảm. Trong dàn đồng ca của nhà thờ cha xứ ưng nhất giọng Iurek. Cha bảo: với giọng ca ấy rồi đây Iurek sẽ làm vẻ vang cho vùng Chlebovo ngay tại kinh thành.
– Xin Chúa thương linh hồn của Iurek!
Ông bưu tá đứng lên, lưng còng xuống, quay về phía ban thờ Chúa Cứu Thế làm dấu thánh và cáo lui.
Khi chiếc xe đạp lọc xọc của ông lão đã đi xa, Jenny mới níu lấy áo bà:
– Bà ơi, konzentrationlager là cái gì hả bà?
– Đó là một thứ nhà tù.
– Nhà tù là cái gì hả bà?
– Là chỗ nhà nước bắt người ta bỏ vào đấy, không cho ra nữa. Còn konzentrationlager thì cũng là nó, nhưng to hơn. Ở đó người ta giam nhiều, rất nhiều người.
– Trông nó thế nào hả bà?
– Bà chưa nhìn thấy nó bao giờ, nhờ ơn Chúa.
– Bố cháu ở đấy hả bà?
– Ừ, bố cháu cũng bị người ta bắt vào đấy.
– Ở đấy bố cháu cũng dạy học như ở Chlebovo, bà nhỉ?
– Không. Bố cháu học.
– Học gì hả bà?
– Học những điều người ta bắt phải học. Nhưng bố cháu sẽ không học những cái đó đâu. Bố cháu sẽ học đủ thứ khác.
– Học gì cơ?
– Bà nói rồi mà – đủ thứ. Những gì người thường không biết thì người tù biết. Thôi, bây giờ bà đi nhóm lò, cháu tập tiếp hai bản Mazurka đi, ăn xong bà cháu ta sang bài mới.
Anna Dombrovska hay nói những câu khó hiểu, nó bực mình nghĩ. Con bé phụng phịu ngồi vào đàn. Thỉnh thoảng bà lão lại bắt Jenny ngừng chơi để sửa một nhịp sai bằng cách vung vẩy cái que cời lò cho nó nhìn theo, như thể đó là gậy chỉ huy của nhạc trưởng trước một dàn nhạc vô hình.
Jenny hồn nhiên coi bà Anna Dombrovska là bà của nó. Nó chẳng còn cả bà nội lẫn bà ngoại. Nó biết nó có quyền làm nũng bà. Anna Dombrovska thấy mình hạnh phúc khi được Jenny làm nũng. Bà cho nó làm nũng bất kỳ lúc nào nó muốn.
Nó hay đòi bà kể chuyện cổ tích. Những chuyện cổ tích của Andersen rồi cũng hết. Bà đành bịa ra những chuyện cổ tích mới, của riêng bà, nhưng vất vả lắm bà mới làm nổi việc đó. Bà giận cái đầu già lão của bà – nó không biết bịa, khi bịa thì quá tồi, đến nỗi Jenny ngáp ngắn ngáp dài rồi lăn ra ngủ ở đoạn mà bà cho là thú vị nhất.
Bà thích kể chuyện cho Jenny nghe vào buổi tối, khi bóng đêm xóa đi những hình ảnh thực tại – lá cờ chữ thập ngoặc trên nóc nhà hội đồng hương chính, những bộ quân phục màu lá cây thẫm, những bóng mũ sắt sùm sụp che nửa mặt, và rất nhiều cái khác nữa. Chỉ có bóng đêm mới đem lại bình yên cho ngôi nhà đầy kỉ niệm tuổi thơ êm ấm. Trong bóng đêm, những bậc thềm gỗ mục kêu cót két dưới mỗi bước đi, tiếng xào xạc của những cây táo cằn cỗi ở ngoài vườn mới còn là thật của một thời đã mất.
Câu chuyện về sao đổi ngôi bắt đầu như thế này.
Hôm ấy Mathilda Baker đi làm về muộn, Jenny ở lại với bà giáo. Cô bé ngồi bó gối trên chiếc ghế bành rách đặt ngoài thềm. Bà lão thì thầm kể câu chuyện nào đó bà vừa nghĩ ra.
Một ngôi sao bỗng lóe lên trên trời đêm. Nó vạch một vệt sáng dài rồi biến mất. Jenny reo lên, chỉ cho bà Anna Dombrovska xem, nhưng không kịp – ngôi sao băng đã lặn vào biển sao im lặng.
Nhân dịp, bà lão kể cho Jenny nghe về sao đổi ngôi, không phải những ngôi sao của khoa học thiên văn, mà là những ngôi sao truyền thuyết. Bà kể: ở nhiều nước người ta tin mỗi người có một vì sao hộ mệnh. Khi một vì sao rơi xuống, có nghĩa là một người nào đó vừa qua đời. Ở một số nước khác người ta lại cho rằng sao băng là một hài đồng trong trắng của nhà trời bay xuống làm người. Lại có những nơi khác, người ta tin rằng sao băng là một bông hoa tuyệt đẹp mà một thiên thần mải chơi đánh rơi.
– Bà nội của bà thì nói rằng nếu từ lúc sao đổi ngôi vừa lóe sáng cho tới khi nó tắt mà ta kịp nói lên một điều ước thì điều ước đó sẽ trở thành sự thật – bà lão nói và cùng với Jenny ngước nhìn bầu trời đen với những vì sao nhỏ bé nhấp nháy trong im lặng – Jenny ơi, nếu cháu ước, cháu sẽ ước gì nào?
Jenny chớp chớp mắt. Nó còn suy nghĩ đã. Bà lão nheo mắt nhìn sát vào gương mặt sáng láng của Jenny và thấy trên đó có hai bầu trời sao.
– Cháu ước gì ấy à? Bây giờ cháu chưa nghĩ ra.
– Cháu nghĩ đi.
– Thế bà ước gì nào?
– Bà ấy à? – Anna Dombrovska thở dài và nhìn vào bóng đêm trước mặt – Bà ước cháu của bà lớn lên thành một cô gái thực xinh đẹp và tốt bụng.
– Cảm ơn bà – Jenny nũng nịu nói và vòng đôi tay nhỏ bé ôm lấy cổ bà giáo, vít đầu bà xuống, đặt nhiều cái hôn trìu mến lên đôi má nhăn nheo – Cảm ơn bà yêu quý của cháu.
Anna Dombrovska nghĩ bà muốn ước cho mọi người trên thế gian có gương mặt trong sáng và trái tim tốt lành của Jenny.
* *
*
Câu chuyện huyền hoặc làm cho Jenny khó ngủ.
Sau câu chuyện của bà giáo, nó kéo hai chiếc ghế đẩu ra ngoài sân, kê sát lại, nằm trên đó như trên một tấm phản, và nhìn lên bầu trời đêm.
Jenny nằm đó lắng nghe tiếng đàn thì thầm từ ngôi nhà của bà giáo vẳng đến và chờ sao đổi ngôi. Trước khi đi ngủ Anna Dombrovska có thói quen dạo vài đoạn nhạc đồng quê của Chopin.
Mathilda Baker lục xục thu dọn nhà cửa trong tiếng đàn ấy. Đồ đạc trong nhà bà bao giờ cũng sạch bóng, ngăn nắp. Từ khi chồng ra đi, bà còn hay quét dọn hơn nữa, công việc này lấp chỗ trống thời gian trong bà.
– Jenny, ngủ đi con! – bà ngừng tay, giục con gái.
– Con chưa buồn ngủ mà.
– Thế con làm gì đấy?
– Con đang ngắm sao.
– Sao thì có gì mà ngắm? Vào nhà ngủ đi!
Nhưng Mathilda Baker giục con lấy lệ thôi, chứ bà vẫn mặc cho nó muốn làm gì thì làm. Từ ngày con gái học đàn, bà thấy đôi mắt con mình trở lên mơ mộng. Rồi đây nó sẽ trở thành nhạc sĩ sáng tác hay nhạc công cũng được, bà thầm nghĩ với niềm vui pha lẫn tự hào. Henrich Baker dần trở thành dĩ vãng, thành kỷ niệm. Ông rơi vào trại tập trung như một chiếc lá chìm xuống ao tù. Ở đó, người ta nói, khó có đường về. Đường đến thường là lò thiêu xác. Nhưng dù sao mặc lòng trong lòng bà vẫn le lói một tia hi vọng. Nó giúp bà tồn tại.
Từ lâu Mathilda căm ghét bức chân dung tên Quốc trưởng hợm hĩnh. Chính nó làm cho đời bà tan nát. Thế mà giờ đây bà vẫn phải chịu đựng sự có mặt của nó ở bất cứ nơi nào bà đặt chân đến – trong mọi ngôi nhà, mọi chốn công cộng. Cả trong ngôi nhà của vợ chồng bà, ở trên ccao, chỗ trang trọng nhất, từ đó hắn nhìn nhìn bà, nhìn Jenny của bà, như Chúa trời nhìn xuống trần thế.
Đêm đêm Mathilda thức giấc thắp ngọn nến nhỏ dưới chân tượng Đức Mẹ Maria đồng trinh. Bà thành kính cầu nguyện Đức Bà phù hộ cho người Mỹ, người Nga, người Anh, người Pháp, hay bất cứ ai khác đi với họ, chóng quét sạch nạn dịch tả nâu đang lan tràn trên thế giới kia, chóng kết liễu đời tên quỷ ngạo mạn và điên khùng có chấm ria mép kia. Để cho Henrich của bà trở về với bà và mọi sự lại như xưa. Cái kết cục bà chờ mong đang rõ đần. Quân đội quốc xã bị đánh tơi tả trên đất nước Nga rộng lớn đang chen chúc nhau trên đường rút chạy về phía tây. Mỗi lần đi ngang mặt chân dung Quốc trưởng, bà Baker dừng lại ném cho nó một cái nhìn căm giận “Hừ, ngày tận số đã đến với mày rồi đấy!”
Jenny nằm ngửa, đăm đắm vào những ngôi sao trên tít trời cao, chốc chốc lại ngáp. Nó đã buồn ngủ quá rồi. Nhưng con bé quyết chống lại cơn buồn ngủ, quyết bám lấy bầu trời để chờ một ngôi sao đổi ngôi. Jenny không tin rằng bố nó không thể nào trở về, như mọi người tin. Họ tuyệt vọng. Jenny vẫn hi vọng. Chỉ cần mình nói sao cho nhanh, cho kịp điều mình mong ước, trong lúc ngôi sao lướt nhanh trên đường đi của nó!
Thế nhưng sao thì lại rơi nhanh quá, nhanh đến nỗi Jenny líu cả lưỡi mà không nói kịp điều ước của mình.
– Ước gì bố trở …..
Câu nói nửa chừng đã đứt cùng với vì sao tắt ngóm làm Jenny bật khóc.
Rồi Jenny thấy những vì sao nhòa dần, biến thành những con chim nhỏ véo von trong một khu vườn tuyệt đẹp chỉ có trong những giấc mơ.
Bà Baker đã dọn dẹp xong, đã làm mọi việc cho ngày hôm sau. Bà ra vườn bế Jenny vào nhà – con bé đã ngủ say.
Chiến tranh bị đánh lăn trở lại sào huyệt của nó rất nhanh trong năm 1945. Những loạt súng lớn làm rung chuyển bầu trời và mặt đất. Mỗi ngày chúng lại đến gần cái thôn nhỏ bé của Anna Dombrovska. Bom rơi, đạn nổ, những cửa kính rung lên bần bật. Bà lão quả quyết rằng ban đêm cùng với tiếng súng và tiếng bom bà nghe rõ tiếng reo hò, có thể là của những người lính Nga và những người lính Ba Lan đang phản công, mà cũng có thể là tiếng reo hò của những người chết oan khuất trong chiến tranh giờ đây vui mừng được thấy giờ hấp hối của kẻ thù.
Cây đàn Ý cổ lỗ lại cao giọng ca hát dưới những ngón tay già lão của Dombrovska.
– Này con mẹ ăn mày kia, mày vui sướng lắm hả? – lão chột Arnold Runken, trưởng thôn, gầm lên khi đi ngang nhà bà.
– Thưa ông, vậy ra ông không ưa thứ nhạc này? Ông thích nghe nhạc buồn, có phải thế không ạ? – Anna Dombrovska ló đầu ra cửa sổ, lễ phép chào lão – Tôi chơi Requiem nhá?
– Tao thích nghe mày rên rỉ trong cơn hấp hối. Còn bây giờ thì im ngay cái mồm! – lão vung ba-toong lên chỉ vào mặt bà – Tao thề sẽ làm cho mày vĩnh viễn im mồm.
Anna Dombrovska thản nhiên khép cửa lại trước mũi lão.
Jenny ghét lão Ruken chột. Lão có một con mắt soi mói và hai giọng nói nheo nhéo. Con mắt còn lại của lão nhìn đâu cũng hằn học, còn giọng nói thì bị vỡ làm đôi, tưởng chừng có hai người nói cùng một lúc, chẳng ai thua ai và cả hai đều là quân đểu cáng. Lần nào gặp Jenny trên đường lão cũng dừng lại, ngả người về phía, con mắt độc ác của lão lại nheo lại như muốn nhìn thấu những ý nghĩ của Jenny.
– Hừm, ra là mày đấy! Lớn nhanh thật, đồ con tù! – lão khạc ra một lời nguyền rủa.
– Lão sợ cháu đấy! – Anna Dombrovska giải thích thái độ của lão Ruken – Lão không còn đủ sức để ghét cháu.
– Sao lại thế, bà? Ông ấy là người lớn mà, sao lão lại sợ trẻ con? – Jenny ngạc nhiên hỏi.
– Bởi vì cháu là tương lai, còn lão thì từ lâu đã trở thành quá khứ.
Jenny ngỡ ngàng nhìn bà. Bà đến là khó hiểu, nhưng bà là người tốt, điều đó chắc chắn. Cả cái lời nói khó hiểu của bà chắc chắn cũng là lời nói tốt.
Một đêm, Jenny mải đợi sao đổi ngôi, ngủ muộn. Vào lúc gần sáng, Jenny thức giấc vì những tiếng động trong nhà. Hé mắt nhìn ra nó thấy mẹ nó và bà giáo dạy đàn hì hục dìu vào nhà một người mặc áo da, đội mũ da. Đó là một phi công Mỹ. Máy bay của anh bị trúng đạn, anh cố gắng lái về phía trận địa quân Nga nhưng không nổi, đành phải nhảy dù xuống vùng đất Đức chiếm đóng. Dù của người phi công rơi vào vườn nhà Baker.
– Gutten Nacht! – anh ta nói với bà Baker bằng giọng thều thào của người kiệt sức, gắng gượng mỉm cười một lần rồi ngất xỉu.
Arnon Ruken thức giấc vì một tiếng nổ lớn ngoài cánh đồng. Lão mở cửa. chạy vội ra đường và nhìn thấy đám cháy do chiếc máy bay rơi gây nên. Sáng ngày ra bọn linh Đức cho biết trên chiếc máy bay cháy không có xác phi công, dù của anh ta rất có thể đã rơi vào thôn của lão.
Cuộc lùng sục bắt đầu. Con chó săn chột mắt dẫn những con chó săn bốn chân đi vào từng nhà, sục sạo.
Đến tối thì lũ chó và lão tìm thấy anh phi công Mỹ trong phòng chứa đồ nhà Baker. Viên phi công đang sốt mê man.
– Đồ phản quốc! – lão vung tay đập vào mặt Mathilda Baker – Vợ thằng tù hôi thối. Mày sẽ được đi theo chồng mày.
Một dòng máu rỉ ra tên mép bà Baker. Bà nhìn chằm chằm vào con mắt độc nhất của của lão trưởng thôn như nghiên cứu một vật kỳ lạ và bất thần nhổ vào mặt lão một bãi nước bọt đầy máu.
Lão chột rú lên, xông đến đánh tới tấp người đàn bà dám làm nhục nó trước mặt dân làng.
– Trói cả con mụ ăn mày Ba Lan này nữa! – Runken kêu lên the thé và chỉ vào mặt Anna Dombrovska cũng vừa hớt hải chạy sang – Thề trước Chúa, một mình con vợ thằng Baker không thể tha nổi tên phi công to xác này vào đây đâu. Hai đứa này cùng một giuộc.
Anna Dombrovska khinh bỉ nhìn lão qua cặp kính lão và bình thản đến bên bà Baker, ôm lấy bà. Bọn lính lôi xềnh xệch hai người, ném họ vào kho củi. Dưới con mắt cú vọ của Runken, những tên lính nện báng súng tới tấp lên hai người đàn bà xụm xuống như hai mớ giẻ rách.
– Hai đứa chúng mày sẽ bị bắn! – Runken đay nghiến hứa.
Khi lão Runken đánh mẹ của Jenny, cô bé lăn xả vào định che cho mẹ, nhưng hai bàn tay cứng như sắt đã nắm chặt con bé, lôi nó ra.
– Chạy đi cháu ơi! Cháu không thấy chúng nó đang lên cơn điên hay sao! – Jenny nghe thấy giọng nói thì thào qua hai hàm răng nghiến chặt của ông bưu tá Bauer.
Jenny luồn qua ngoài qua lỗ thủng ở hàng rào và cứ thế chạy thục mạng qua đồng cỏ.
Trời không lạnh nhưng cô bé run cầm cập. Đêm phủ lên đồng cỏ một mền sương mỏng. Những vì sao thưa thớt vẫn thản nhiên nhấp nháy, hờ hững với tất cả những gì đang diễn ra dưới mặt đất. Chớp nguồn giật liên hồi ở chân trời phía Đông, bên kia khu rừng, nơi nhà thờ Đức mẹ đồng trinh đã mấy ngày không có tiếng chuông. Những ánh chớp phía tây đi kèm với từng hồi sấm câm lặng làm rung chuyển đất đai.
Jenny chạy mãi cho đến khi chân mỏi nhừ và ngã vật xuống. Nước mắt cô bé chảy ướt những ngọn cỏ sắc, nhưng Jenny không dám khóc to. Nó không biết mình đã chạy trốn bao lâu, bao xa, và ở đây đã thoát khỏi mọi nguy hiểm chưa? Khi chạy, Jenny lúc nào cũng có cảm giác có ai đó chạy theo sau. Mãi nó mới hiểu đó là tiếng chân của chính nó, rằng chỉ có một mình nó trên cánh đồng hoang vắng.
Jenny khóc, nhìn lên bầu trời. Nó nguyền rủa các vì sao đang nhòa đi trong nước mắt. Chúng cứ đứng yên, tại chỗ, chớp lia lịa, trân trân nhìn xuống Jenny: chuyện gì xảy ra ở dưới kia thế, để cho con bé tí xíu phải chạy bán sống bán chết ra đồng cỏ, hai bím tóc xổ tung và nước mắt đầm đìa?
Ôi những ngôi sao mới ngu ngốc làm sao? Tại sao chúng không đổi chỗ mau mau đi, không rơi xuống mau mau đi? Để cho người ta còn nói điều người ta ước?
Jenny thút thít kể cho đồng cỏ, cho những con dế đang hát khe khẽ, cho những cơn gió nhẹ lướt trên những bông hoa dại, về nỗi đau của nó. Nó còn biết kể lể với ai lúc này?
Nằm nghỉ một lát, Jenny lại vùng dậy tiếp tục chạy, chạy mãi, chạy cho thật xa mốì nguy hiểm. Rồi mệt lử và tuyệt vọng, nó ngồi bệt xuống đất lạnh, mệt mỏi ngắt những sợi cỏ nhấm cho đỡ khát. Nó không buồn nguyền rủa, không buồn khóc, không buồn kể lể nữa. Bây giờ nó chỉ muốn chết đi cho rảnh.
Khi một đứa trẻ mong cái chết cho mình thì đó là nỗi tuyệt vọng lớn hơn bất cứ nỗi tuyệt vọng nào trên trái đất.
Đúng vào phút ấy ở lưng chừng trời bỗng bừng sáng một vì sao. Nó không lướt nhanh như những sao đổi ngôi Jenny đã gặp mà chầm chậm rơi xuống chân trời.
Jenny đứng phắt dậy, hai tay nắm chặt, nói thật nhanh, đến nỗi nói lắp, những điều từ lâu nó mong ước. Nó nói hết những điều muốn nói rồi mà ngôi sao vẫn chưa tắt. Nó còn kịp ước cho bà giáo tai qua nạn khỏi, cho anh phi công người Mỹ thoát cảnh ngục tù, cho cụ Bauer khỏi bệnh… Và nhiều, nhiều nỗi những điều nó vừa nghĩ ra.
Ngôi sao mong ước của Jenny chưa tắt thì từ phía những khu rừng bỗng nổ ran tiếng tiểu liên và lựu đạn hòa lẫn tiếng hô “Ura” như một đợt sóng âm lướt nhanh trên tán lá rừng.
Đến lúc cô bé hiểu chuyện gì đã xảy ra thì cuộc chiến đấu đã rời rừng, tràn ra đồng cỏ. Jenny nằm dán mình xuống đất, nghe tiếng đạn réo chiu chiu trên đầu và tiếng xe tăng gầm rú. Rồi một ánh chớp lóe lên và cô bé không biết gì nữa.
* *
*
Khi Jenny mở mắt thì vật đầu tiên mà nó nhìn thấy là một ngôi sao sáng chói. Đó là ngôi sao trên mũ người lính đang cúi xuống giường bệnh của Jenny trong trạm quân y dã chiến. Một giọt nắng lọt qua cửa sổ đã rơi đúng ngôi sao làm cho nó cháy rực lên màu hồng ngọc. Về sau người ta kể lại cho Jenny nghe rằng chính người y tá này đã nhặt được nó bên một hố đại bác.
Rồi Jenny nhìn thấy một nụ cười trên khuôn mặt cháy nắng và một giọng nói ấm áp:
– Thế nào, cô bé? Dễ chịu rồi chứ? – người lính hỏi bằng tiếng Nga.
– Tak, dzenkuje bardzo. Vâng, cháu cảm ơn chú nhiều. – Jenny lắp lắp trả lời bằng tiếng Ba Lan, nhưng lập tức sau đó nó tái mặt, níu lấy áo người lính, hỏi dồn – Mẹ cháu đâu, chú ơi? Mẹ cháu còn sống chứ chú?
Jenny hỏi nhanh quá, lại bằng tiếng Ba Lan, làm cho chú y tá ngẩn người. Nhưng chú mau chóng đoán ra và đưa mắt chỉ về phía cửa lều. Jenny nhìn thấy mẹ đầu tiên, rồi tới bà giáo, và sau hết là ông bưu tá Willy Bauer. Cả ba cười tươi.
Mathilda Baker đến trạm quân y dã chiến để đón Jenny về. Nó còn yếu, nhưng trạm quân y phải di chuyển theo mặt trận. Jenny đứng bên mẹ chia tay với những người lính Ba Lan và và những người lính Nga cùng đi thành một hàng thật dài. Họ vừa đi vừa hát, bên tấm biển được dựng vội với mũi tên chỉ hướng Berlin. Viên phi công Mỹ nằm thiêm thiếp trên cáng. Ở đầu cáng là một lá cờ có rất nhiều sao.
Jenny giơ bàn tay bé bỏng lên vẫy các chú, các chú cúi xuống mỉm cười, nhìn vào tận mắt nó, hôn vội một cái bên trán nó, rồi tiếp tục đi. Mặt trời ban mai tỏa những tia sáng trong trẻo làm cho những ngôi sao trên mũ các chú lấp lánh.
Ông lão Willy Bauer và những người nghèo trong thôn giúp bà giáo khiêng cây đàn Ý ra đặt bên đường.
Anna Dombrovska, mặt đầy những vết xây xát và thâm tím của trận đòn vừa qua, lảo đảo ngồi xuống, gieo những ngón tay trẻ lại của bà xuống hàng phím ngà của cây dương cầm. Chúng nhảy nhót, giục giã cây đàn già lão hào hứng hát lên bằng trăm giọng vui mừng. Bà không chọn hẳn một bản nhạc nào, mà chơi tất những trích đoạn nổi tiếng của các nghệ sĩ vĩ đại của mọi nước, mọi thời đại, để ca ngợi, để tiễn đưa và để chúc phúc những con người đang rấm rập đi về phía Berlin.
Gió sớm làm bay tung mái tóc bạc của Anna Dombrovska. Những ai có mặt ngày hôm ấy đều quả quyết rằng mặt trời buổi sớm và niềm vui đã biến bà lão thành một cô gái tóc vàng, giống hệt cô Anna ngày xưa.
Mùa xuân đến sớm làm băng vỡ nhanh trên con ngòi ở rìa làng và nước tuyết tan chảy róc rách ở các rãnh.
Trong những cuốn sách viết về lịch sử chiến tranh thế giới lần thứ hai không thấy nói tới cuộc hành quân của những người nhiều quốc tịch khác nhau đi về phía Berlin mùa xuân năm ấy, cũng như không có dòng nào về Chlebovo. Địa phương đó quá nhỏ để được nói tới.
Và tất nhiên, lịch sử không nói tới những số phận người, như số phận của bà lão Anna Dombrovska và Jenny, con bé chờ sao đổi ngôi.
V.T.H