Người dịch: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng
CHƯƠNG 60
~ Anh đứng ở chỗ nước nông nhìn ra bộ xương cháy đen thui của chiếc Erasmus mắc cạn và bị lật nghiêng, dập dềnh trong làn sóng nhỏ vỗ bờ, cách bờ khoảng bảy mươi
“Ya” (Thước Anh bằng 0,90 mét) cột buồm mất, sàn mất, mọi thứ mất hết, trừ sống thuyền và bộ sườn phía trước chĩa lên trời.
“Bọn khỉ định đưa nó lên cạn”, Vinck ủ rũ nói.
“Không phải. Thủy triều đưa nó vào đây.”
“Lạy Chúa, tại sao lại thế, ông hoa tiêu? Nếu, mẹ kiếp, có cháy và lại ở gần bờ thì, mẹ kiếp, phải đưa nó lên cạn để chữa cháy! Mẹ kiếp, ngay bọn chó đẻ kia cũng biết phải làm thế!” Vinck nhổ toẹt xuống cát.
“Bọn khỉ! Lẽ ra ông không bao giờ nên giao thuyền cho chúng. Bây giờ thì chúng ta làm gì đây? Làm thế nào mà trở về quê cha đất tổ được? Đáng lẽ ông phải để nó lại Yedo, sẽ an toàn, chúng tôi cũng an toàn với đám eta của chúng tôi.”
Giọng rền rĩ của Vinck làm Blackthorne bực mình. Bây giờ cái gì Vinck cũng làm anh bực mình. Tuần vừa qua đã ba lần anh suýt bảo các chư hầu của anh lặng lẽ đâm chết Vinck rồi quẳng hắn xuống biển để hắn không còn làm khổ anh nữa, khi tiếng than khóc, rên rỉ và những lời buộc tội của hắn trở nên quá đáng, không còn chịu nổi. Nhưng lần nào anh cũng cố dằn mình xuống và đi lên boong hoặc xuống bên dưới tìm Yabu. Đứng gần Yabu, Vinck không dám ho he gì cả, hắn sợ Yabu đến sững sờ và sợ là phải. Trên galleon anh tự kiềm chế được dễ dàng. Còn ở đây, xấu hổ và nhục nhã trước bộ xương trơ trụi của chiếc thuyền, việc đó không phải là dễ dàng.
“Có lẽ chúng đưa nó lên cạn”, anh nói, chán ngán muốn chết.
“Nhất định là bọn chó đẻ ăn phân đã định đưa nó lên cạn! Nhưng chúng đã không dập tắt được lửa, quỉ tha ma bắt chúng! Lẽ ra không bao giờ nên để cho cái lũ Nhật Pủn đó lên thuyền, cái lũ bú dù hôi thối, chó chết ấy…”
Blackthorne bịt hai tai lại và chăm chú nhìn chiếc galleon đang neo vào bến, cách đó vài trăm bước, tại làng Yokohama. Các lán trại của Trung đoàn Hỏa mai vẫn còn rải rác trên bãi biển và các chân đồi. Mọi người đang luyện tập, hối hả, sự lo lắng bao trùm lên tất cả bọn họ. Hôm nay nắng ấm, gió nhè nhẹ thổi. Mũi anh bất chợt ngửi thấy mùi hương hoa trinh nữ. Anh trông thấy Kiri và Suzuko đang trò chuyện dưới những chiếc dù màu da cam ở phía đuôi thuyền và anh tự hỏi có phải mùi hương đó là của họ không. Rồi anh quan sát Yabu và Naga đang đi đi lại lại trên bến. Naga đang nói còn Yabu thì nghe, cả hai đều có vẻ rất căng thẳng. Anh thấy họ nhìn về phía anh, và anh cảm thấy sự bồn chồn của họ.
Khi chiếc galleon vòng qua mũi đất cách đây hai giờ Yabu đã bảo:
“Đến gần xem làm gì, Anjin-san? Tàu chết rồi, neh? Hết. Đi Yedo! Chuẩn bị chiến tranh. Bây giờ không còn thì giờ nữa.”
“Xin lỗi… đỗ đây, phải xem kỹ. Xin Đại nhân vui lòng!”
“Đi Yedo! Tàu chết rồi… biết rồi. Neh?”
“Đại nhân muốn, Đại nhân đi. Tôi bơi.”
“Khoan đã. Tàu chết rồi, neh?”
“Xin lỗi, đề nghị đỗ lại. Một ít thời gian thôi. Rồi Yedo.”
Cuối cùng Yabu đã đồng ý và họ đã cập bến. Naga ra đón họ.
“Rất đáng tiếc, Anjin-san, neh?” Naga nói, mắt hắn lờ đờ vì thiếu ngủ.
“Vâng, rất đáng tiếc, xin hỏi, chuyện gì xảy ra?”
“Xin lỗi, không biết. Honto. Tôi không có đây, hiểu không? Tôi được lệnh đi Mishima vài ngày. Khi trở về, mọi người bảo động đất ban đêm… tất cả xảy ra ban đêm, hiểu không? ông hiểu
“Động đất” chứ, Anjin-san?”
“Hiểu. Vâng. Xin nói tiếp.”
“Động đất nhỏ thôi. Ban đêm… Có người nói sóng cồn tới, có người nói không phải sóng cồn mà chỉ một đợt sóng lớn, sóng bão. Đêm ấy có bão, neh?Tai phun nhỏ. Ông hiểu tai phun chứ?”
“Hiểu.”
“A, thật đáng tiếc. Đêm rất tối. Họ bảo sóng lớn đến. Họ bảo đèn dầu trên boong vỡ. Thuyền bắt lửa, neh? Tất cả bắt lửa, nhanh, rất nhanh…”
“Nhưng lính gác, Naga-san? Người trên boong đâu?”
“Rất tối. Lửa rất nhanh, hiểu không? Rất tiếc, Shigata ga nai, neh?” Hắn nói thêm.
“Người trên boong đâu, Naga-san? Tôi có để lính gác, neh?”
“Khi tôi trở về một ngày sau, rất tiếc, neh? Thuyền hết rồi, vẫn còn cháy ở chỗ nông kia… gần bờ. Thuyền hết rồi. Tôi gọi tất cả mọi người trên thuyền và tất cả lính tuần tra trên bờ đêm ấy. Bắt họ báo cáo. Không ai biết chắc chắn cái gì đã xảy ra.” Mặt Naga tối sầm.
“Tôi ra lệnh cho họ cứu… đem lên bờ tất cả những gì có thể cứu được hiểu không? Tất cả. Mọi thứ bây giờ để để trên kia, ở trạm.” Hắn chỉ về phía cao nguyên.
“Có lính gác. Lính của tôi. Rồi tôi xử tử chúng và vội trở về Mishima báo cáo Đại nhân Toranaga.”
“Tất cả bọn họ? Tất cả xử tử?”
“Vâng… họ đã không làm tròn bổn phận.”
“Đại nhân Toranaga nói gì?”
“Rất giận dữ. Giận dữ rất đúng, neh? Tôi đề nghị seppuku. Đại nhân Toranaga không cho phép. “Iiiii! Đại nhân rất giận dữ, Anjin-san!” Naga bực bội vẫy tay trỏ quanh bãi biển.
“Toàn thể trung đoàn bị nhục. Tất cả. Tất cả các sĩ quán ở đây bị nhục. Anjin-san. Bị đưa đi Mishima. Năm mươi tám người đã seppuku.”
Blackthorne đã suy nghĩ về cơn số này và anh những muốn hét lên, năm ngàn hay năm mươi ngàn cũng không bù đắp được việc mất chiếc thuyền của ta!” Không tốt”, miệng anh nói.
“Vâng, rất không tốt.”
“Vâng. Nên đi Yedo. Hôm nay. Chiến tranh hôm nay, ngày mai, ngày kia, xin lỗi.”
Rồi Naga sôi nổi nói gì đó với Yabu một lúc và Blackthorne đầu óc mụ mẫm, căm ghét những tiếng nói nghe khó chịu, căm ghét Naga, Yabu và tất cả bọn chúng. Anh chẳng hiểu Naga nói gì nhưng thấy sự bồn chồn của Yabu tăng lên. Naga quay lại nói với anh, giọng lúng túng nhưng dứt khoát:
“Xin lỗi, Anjin-san. Tôi không thể làm gì hơn được. Honto, neh?”
Blackthorne gắng gượng gật đầu.
“Honto. Domo, Naga-san. Shigata ga nai.” Anh xin lỗi họ rồi cáo từ xuống chỗ chiếc thuyền của anh, để được một mình, không tin mình còn có thể kiềm chế nổi cơn điên giận cuồng dại trong lòng, biết rằng anh không thể làm gì được, rằng anh sẽ không bao giờ biết được gì thêm nữa, rằng dù sự thật là thế nào thì con thuyền của anh cũng đã mất, bọn tu sĩ, bằng cách nào đó, đã tìm được cách để mua chuộc một số người hoặc dụ dỗ họ hoặc đe dọa họ để làm cái việc bẩn thỉu, độc ác này. Anh đã trốn khỏi Yabu và Naga, đi chậm rãi, người thật thẳng, nhưng chưa đi khỏi bến, Vinck đã đuổi theo anh, xin anh đừng bỏ hắn lại. Trước sự sợ hãi đến hoảng hốt, thảm hại của hắn, anh đã đồng ý và cho hắn đi theo. Nhưng anh buộc mình không để ý gì tới hắn.
Thế rồi, xuống dưới bờ biển, bất ngờ họ đã trông thấy những chiếc đầu lâu rùng rợn còn lại. Hơn một trăm chiếc, cắm trên những mũi giáo, bị các cồn cát che lấp đứng ở bến không trông thấy. Những con chim biển bay vù lên kêu choe chóe như một đám mây trắng khi họ tới gần, rồi khi họ vội vã chạy qua, chúng lại sà xuống để mổ, rỉa và tranh cướp nhau chí chóe.
Lúc này anh đang ngắm nhìn cái khung thuyền, một ý nghĩ ám ảnh anh day dứt. Mariko đã nhìn thấy sự thật và đã bí mật báo cho Kiyama hoặc cho bọn tu sĩ:
“Không có chiếc thuyền, Anjin-san bất lực không làm gì được Giáo hội. Tôi đề nghị hãy để cho ông ấy sống, chỉ phá huỷ chiếc thuyền thôi…”
Anh như có thể nghe thấy nàng nói ra điều đó. Nàng đúng. Thật là một giải pháp hết sức đơn giản cho vấn đề của các người Thiên Chúa giáo. Phải. Nhưng bất kỳ người nào trong bọn họ cũng có thể nghĩ ra được điều đó. Và họ làm thế nào mà qua được bốn nghìn con người? Họ đã đút lót những ai? Như thế nào?
Ai thì cũng không quan trọng. Hoặc làm thế nào cũng không quan trọng. Họ đã thắng.
Cầu Chúa phù hộ cho con, không có thuyền là con chết. Con không thể giúp được Toranaga và cuộc chiến tranh của ông ta sẽ nuốt chửng chúng con.
“Tội nghiệp cho chiến thuyền”, anh nói.
“Hãy tha thứ cho ta… chết vô ích như thế thật buồn quá. Sau bao nhiêu hải lý đã trải qua.”
“Cái gì?” Vinck hỏi.
“Không có gì cả”, anh nói.
“Thuyền ơi, tha thứ cho ta. Ta không hề mặc cả như vậy với nàng hay bất cứ ai. Tội nghiệp Mariko. Hãy tha thứ cho cả nàng nữa, thuyền nhé.”
“Ông nói gì vậy, ông hoa tiêu?”
“Không. Tôi suy nghĩ, bất giác nói to lên đó thôi.”
“Ông có nói cái gì đấy. Tôi có nghe ông nói thề có Chúa!”
“Thề có Chúa, ông hãy im đi!”
“Sao? Im đi phải không? Chúng ta đã bị bỏ rơi, phải sống suốt đời với cái bọn ăn cứt ăn tè này! Đúng không?”
“Đúng.”
“Đúng, phải không?” Toàn thân Vinck run bắn lên và Blackthorne chuẩn bị sẵn sàng.
“Đó là lỗi tại ông. Ông bảo đi sang Nhật và chúng tôi đã đến đây, bao nhiêu người chết dọc đường? Ông là kẻ có tội!”
“Đúng. Rất tiếc, nhưng ông nói đúng!”
“Ông tiếc ư, ông hoa tiêu? Chúng tôi làm thế nào để trở về nhà bây giờ? Mẹ kiếp, công việc của ông là đưa chúng tôi về nhà! Ông định làm thế nào bây giờ? Hả?”
“Tôi không biết. Một số chiếc thuyền khác của chúng ta sẽ tới đây, Johann. Chúng ta sẽ phải đợi một…”
“Đợi? Đợi bao nhiêu lâu? Năm năm mục xương ở đây, hay hai mươi năm? Lạy Chúa, chính ông đã nói rằng tất cả cái bọn đầu đầy cứt kia bây giờ đang chiến tranh với nhau!” Đầu óc Vinck chợt lóe lên.
“Chúng sẽ chặt đầu chúng ta cắm lên cọc như những cái đầu ở đằng kia kìa rồi chim sẽ rỉa, sẽ ăn thịt chúng ta…” Một chuỗi cười điên khùng cực độ khiến hắn rung cả người và hắn thò tay vào trong chiếc áo sơ mi rách. Blackthorne trông thấy báng khẩu súng ngắn. Anh rất có thể dễ dàng đánh Vinck ngã lăn ra đất và giật lấy khẩu súng trước mặt anh nhưng anh không làm gì để tự vệ. Vinck vung vẩy khẩu súng trước mặt anh, nhẩy chồm chồm quanh anh với một sự vui sướng rồ dại, rớt dãi chảy ròng ròng. Blackthorne đợi, không chút sợ hãi, hi vọng đón nhận viên đạn. Bỗng Vinck cắm đầu cắm cổ chạy dọc bờ biển. Lũ chim biển bốc thẳng lên không, kêu quang quác, choe chóe bay tạt ra khỏi đường hắn chạy. Vinck chạy như điên được khoảng trăm bước rồi ngã vật xuống, lưng xuống trước, chân vẫn còn cử động, tay vẫn còn vẫy, mồm tuôn ra những lời chửi rủa tục tằn. Được một lát, hắn lật người nằm sấp xuống với một tiếng kêu cuối cùng, mặt hướng về Blackthorne, rồi cứng đờ. Im lặng đổ xuống.
Khi Blackthorne tới chỗ Vinck, khẩu súng vẫn chĩa vào người hắn, mắt hắn mở trừng trừng với một vẻ hằn thù điên dại, môi kéo xệch răng nhe ra. Vinck đã chết.
Blackthorne vuốt mắt cho hắn, nâng hắn lên đặt trên vai mình rồi quay trở lại. Bọn Samurai đang chạy tới, Naga và Yabu dẫn đầu.
“Chuyện gì thế, Anjin-san?”
“Anh ta phát điên.”
“Thế à? Chết rồi ư?”
“Chết rồi. Chôn cất xong, đi Yedo. Được chứ?”
“Hai”
Blackthorne bảo lấy một cái xẻng và yêu cầu mọi người để anh một mình, và anh chôn Vinck phía trên mép nước, trên một cái gò nhìn xuống chỗ chiếc thuyền chỉ còn trơ bộ khung. Anh cầu nguyện làm lễ bên nấm mồ rồi cắm lên mộ một cây thập ác làm bằng hai mảnh gỗ vỡ của chiếc thuyền. Làm lễ thật dễ dàng. Anh đã làm như vậy quá nhiều lần rồi. Chỉ riêng chuyến đi này đã hơn một trăm lần đối với thủy thủ đoàn của anh, kể từ khi họ rời khỏi Holland. Bây giờ chỉ còn Bacut, Van Nekk và chú nhỏ Croocq là sống sót, những người khác là người của những thuyền khác sang. Salamon anh chàng câm, Jan Roper , Sonk nấu bếp, Ginsel người làm buồm. Năm chiếc thuyền và bốn trăm chín mươi sáu người. Và bây giờ là Vinck. Tất cả đều đã ra đi chỉ trừ có bảy người. Và để làm gì?
Để đi vòng quanh trái đất ư? Để làm những người đầu tiên ư?
“Tôi cũng không biết nữa.
“Anh nói với nấm mộ.
“Nhưng chắc chắn chuyện đó sẽ không xảy ra bây giờ.”
Anh thu dọn sạch sẽ.
“Sayonara Johan.” Rồi anh đi xuống biển và cởi quần áo bơi ra xác chiếc thuyền để tắm rửa sạch sẽ. Anh đã nói với Yabu và Naga rằng đó là phong tục nước anh, sau khi chôn cất một người trên đất liền. Người thuyền trưởng phải làm việc đó riêng một mình nếu không có ai khác và biển là người làm họ trong sạch trước Chúa, tức là Chúa Cơ đốc giáo nhưng không hoàn toàn giống Chúa Cơ đốc giáo của dòng Temple.
Anh bám vào một thanh sườn của thuyền và thấy các con hầu, con hà đã bám đầy thành từng cụm, cát đã phủ lên mặt phẳng của sống thuyền ở dưới mặt nước ba sải. Chẳng bao lâu nữa, biển sẽ chiếm đoạt hết và chiếc thuyền sẽ biến mất. Anh vơ vẩn nhìn quanh. Chẳng còn gì nữa mà vớt, anh tự nhủ, chẳng chờ đợi gì hết.
Anh bơi vào bờ. Một số tên chư hầu của anh đang đợi anh với áo quần mới. Anh mặc vào, cài kiếm vào thắt lưng rồi đi trở về. Tới gần bến, một chư hầu của anh trỏ:
“Anjin-san!”
Một con chim đưa thư bị một con chim ưng đuổi theo, đang kêu choe chóe cuống cuồng bay về nơi an toàn trong chuồng của nó ở làng. Chuồng đặt ở sát mái tòa nhà cao nhất, trên một gò cao cách xa bờ biển. Phải bay một trăm thước nữa. Con chim ưng lượn ở tít trên cao, ngay phía trên con mồi, cụp cánh lại, bổ xuống. Nhưng đòn đó chỉ làm tung lên một mớ lông, không hoàn hảo. Con chim bồ câu rít thất thanh, rơi xuống như bị tử thương, rồi gần tới mặt đất nó hồi phục lại và bay về chuồng. Nó chui tọt vào cái lỗ ở chuồng an toàn, trong khi con ưng giận kêu éc-éc-éc cách đằng sau nó vài gang tay. Mọi người đều hoan hô, trừ Blackthorne. Ngay sự khôn ngoan và dũng cảm của con chim bồ câu, anh cũng dửng dưng. Không còn gì làm anh xúc động nữa.
“Giỏi , neh?” một chư hầu của anh nói, bối rối trước vẻ mặt lầm lì của chủ.
“Giỏi.” Blackthorne trở lại galleon, Yabu có mặt với phu nhân Sazuko, Kiri và viên thuyền trưởng. Tất cả đã sẵn sàng.
“Yabu-san, ema Yedoka?” anh hỏi.
Nhưng Yabu không trả lời và chẳng ai để ý đến anh. Mọi con mắt đều đổ dồn vào Naga đang vội vã đi về phía làng. Một người trông coi chim bồ câu trong ngôi nhà đi ra đón hắn. Naga bẻ dấu niêm phong, đọc mảnh giấy.
“Galê và tất cả mọi người trên thuyền ở lại
Yokohama cho đến khi ta tới, ký tên: Toranaga.”
*
Đám kị sĩ nhanh chóng phi tới sườn đồi trong ánh nắng sớm. Đi đầu là năm mươi kị sĩ mở đường và trinh sát của đội tiên phong do Buntaro chỉ huy. Tiếp đến các cờ xí. Rồi Toranaga. Sau ông là đại quân dưới quyền chỉ huy của ông. Theo sau là cha Alvito Tsukku-san và mười thầy dòng đi thành một nhóm sát nhau và sau nữa là đội hậu quân, trong đó các thợ săn trên cánh tay đeo bao tay có những con chim ưng đậu, đầu chụp kín trừ một con ó lớn mắt vàng. Tất cả các Samurai đều mang vũ khí đầy người và mặc áo giáp, kể cả kị binh.
Toranaga thoải mái ngồi trên ngựa, đầu óc nhẹ nhõm. Ông đã trở thành một người khác, khỏe mạnh hơn, mới hơn, và vui vẻ thấy cuộc hành trình sắp kết thúc. Từ khi ra lệnh cho Naga giữ chiếc galleon ở lại Yokohama, đến nay đã hai ngày rưỡi, ông rời Mishima, hành quân gấp. Đoàn đi rất nhanh, cứ hai mươi ri lại đổi ngựa. Tại một trạm không chuẩn bị sẵn ngựa, tên Samurai phụ trách trạm bị cách chức, lương bổng của hắn được chuyển sang một tên khác và hắn được lệnh seppuku hoặc cạo đầu đi tu. Tên Samurai đã chọn cái chết.
Thằng khốn nạn đó đã được báo trước, Toranaga thầm nghĩ, toàn bộ Kuanto đã được động viên và sẵn sàng chiến tranh. Tuy nhiên, cái chết của hắn không phải là lãng phí hoàn toàn. Ông tự nhủ. Ít ra thì cái tin về tấm gương này cũng sẽ bay đi lập tức khắp lãnh thổ và sẽ không còn sự chậm trễ không cần thiết nữa.
Còn biết bao việc phải làm, ông nghĩ, đầu óc rối bời những sự kiện, kế hoạch và phản kế hoạch. Bốn ngày nữa là đã đến ngày rồi, ngày thứ hai mươi hai của tháng tám, tháng thưởng trăng. Hôm nay, tại Osaka, Hoàng thân Ogaki Takamoto sẽ chính thức đến gặp Ishido và lấy làm tiếc mà thông báo rằng cuộc viếng thăm Osaka của Thiên tử phải lùi lại vài ngày vì lý do sức khỏe.
Vận động để trì hoãn cuộc viếng thăm thật quá dễ đàng. Tuy Ogaki là hoàng thân hàng thứ bảy và thuộc dòng dõi Thiên Hoàng Gôsôko, Thiên Hoàng thứ chín mươi lăm của triều đại, nhưng lão nghèo cũng như tất cả các thành viên của triều đình. Triều đình không có thu nhập riêng. Chỉ các Samurai là có thu nhập và hàng mấy trăm năm nay, triều đình phải sống bằng tiền trợ cấp – bao giờ cũng ít ỏi và được kiểm soát cẩn thận – của Shogun,
kwampuku hoặc tập đoàn thống trị cầm quyền. Cho nên Toranaga đã kính cẩn và rất thận trọng trao cho Ogaki , qua các trung gian, mỗi năm mười ngàn Koku, để lão ban phát cho họ hàng thân thích thiếu thốn, và khiêm nhường nói rằng ông thuộc dòng Minowara và do đó cũng là con cháu của Gôsôko, rằng ông lấy làm sung sướng được giúp đỡ và tin rằng đức Thiên Hoàng sẽ giữ gìn sức khỏe quí báu của Người với khí hậu thất thường bất trắc của Osaka nhất là vào khoảng ngày hai mươi hai.
Tất nhiên không có gì đảm bảo là Ogaki sẽ thuyết phục hay can ngăn Thiên Hoàng, nhưng Toranaga phỏng đoán rằng các cố vấn của Thiên Hoàng hoặc chính Thiên Hoàng sẽ vui mừng tán thành một cái cớ nào đó để trì hoãn… và rất có thể là cuối cùng có thể hủy chuyến đi này. Trong ba thế kỷ, chỉ có mỗi một lần một Thiên Hoàng đang ngự trị rời khỏi cung ở Kyoto. Việc đó xảy ra cách đây bốn năm, do Taiko mời Thiên Hoàng tới thưởng ngoạn hoa anh đào nở ở gần lâu đài Osaka, trùng hợp với việc ông ta nhường tước vị kwampaku cho Yaemon, và do đó, hàm ý đóng dấu ấn Thiên Hoàng vào sự kế vị này.
Bình thường ra, không một Daimyo nào, ngay cả Toranaga, dám đưa ra một đề nghị như thế với bất cứ một triều thần nào vì như vậy là lăng nhục và tiếm đọat quyền của một bề trên – trong trường hợp này là Hội đồng – và lập tức sẽ được xem như một sự phản bội, mà đúng là như thế thật. Nhưng Toranaga biết mình đã bị kết tội phản bội rồi.
Ngày mai Ishido và các đồng minh của hắn sẽ tiến quân chống ta. Ta sẽ còn lại thêm được bao nhiêu thời gian? Trận đánh sẽ diễn ra ở đâu? Ôđasara? Chiến thắng chỉ thuộc vào thời điểm và địa điểm chứ không phải phụ thuộc vào số quân. Chúng sẽ áp đảo ta, chí ít là ba chọi một. Không sao, ông nghĩ. Ishido đang ra khỏi thành Osaka! Mariko đã bẫy được hắn. Trong ván cờ giành quyền bính, ta đã thí quân hoàng hậu nhưng Ishido đã mất hai quân xe.
Đúng. Nhưng mi mất hơn một quân hoàng hậu trong ván vừa rồi đấy. Mi đã mất cả chiếc chiến thuyền. Một quân tốt có thể trở thành quân hoàng hậu – nhưng không thể trở thành một chiến thuyền được!
Đoàn quân đang phi nhanh xuống chân đồi. Bên dưới là biển. Họ ngoặt ở một chỗ đường rẽ và trước mắt họ là Yokohama với chiếc thuyền cháy ở ngay ngoài bờ một chút. Toranaga trông thấy cao nguyên nơi Trung đoàn Hỏa mai xếp thành hàng ngũ chỉnh tề với ngựa và trang bị đầy đủ, súng cắm vào bao, chờ duyệt binh. Những tên Samurai khác, cũng vũ trang đầy đủ, đứng dọc con đường về phía bờ biển, thành hàng rào danh dự. Ở rìa làng, dân làng quì thành hàng ngay ngắn đợi để tỏ lòng tôn trọng Đại nhân Toranaga. Xa hơn nữa là chiếc galleon, thủy thủ đứng đợi với viên thuyền trưởng. Hai bên bến, các thuyền đánh cá đều được đưa lên cạn, sắp thành hàng lối chỉnh tề và Toranaga thầm ghi nhớ để khiển trách Naga. Ông ra lệnh cho Trung đoàn phải sẵn sàng để có thể lên đường ngay tức khắc, nhưng ngăn dân chài hoặc nông dân không cho họ đánh cá hay làm ruộng là vô trách nhiệm.
Ông xoay người trên yên, gọi một gã Samurai, ra lệnh cho gã đi bảo Buntaro cứ đi lên phía trước xem xét mọi thứ đâu đã vào đấy và sẵn sàng chưa.
“Rồi xuống làng và cho giải tán dân làng để họ đi làm việc, trừ hương trưởng.”
“Xin tuân lệnh Đại nhân”, gã Samurai thúc gót vào bụng ngựa phóng đi.
Lúc này Toranaga đã tới khá gần cao nguyên, ông đã nhận ra mặt mọi người: Anjin-san và Yabu, rồi Kiri và Sazuko. Lòng ông càng thêm phấn chấn.
Buntaro đang phi nhanh trên con đường mòn, cây cung lớn và hai ống tên đầy đeo sau lưng, khoảng nửa tá Samurai theo sau. Chúng rời khỏi đường mòn, phi ra cao
nguyên. Ngay tức khắc Buntaro trông thấy Blackthorne và mặt anh ta đanh lại. Rồi anh ta gò cương và thận trọng nhìn quanh. Một cái rạp có mái che chỉ để có một chiếc đệm, đối diện với trung đoàn. Một rạp khác, nhỏ hơn và thấp hơn, dựng ngay cạnh: Kiri và Sazuko đợi ở đó. Yabu với tư cách là sĩ quan cao cấp nhất, đứng đầu trung đoàn, Naga ở bên phải, Anjin-san ở bên phải lão. Tất cả đều có vẻ an toàn và Buntaro vẫy tay cho đoàn quân tiến lên. Đội tiên phong phi nước kiệu tới, xuống ngựa và tản ra bảo vệ rạp duyệt binh. Rồi Toranaga cưỡi ngựa đến. Naga giương cao ngọn cờ chiến đấu lên. Lập tức bốn ngàn con người hô vang:
“Toranagaaaaaaaa!” và cúi chào.
Toranaga không đáp lại lời chào đó. Trong sự im lặng như tờ, ông nhìn để nhận xét. Ông để ý thấy Buntaro len lén nhìn Anjin-san. Yabu đang đeo thanh kiếm do ông tặng và có vẻ bồn chồn, bứt rứt. Tên Anjin-san chào đúng phép rồi đứng im không nhúc nhích, đốc kiếm của hắn bị vỡ. Kiri và nàng hầu trẻ nhất của ông đang quì, hai bàn tay áp lên tatami, mắt kín đáo cúi thấp. Trong giây lát, ánh mắt ông dịu xuống, rồi trừng mắt nhìn Trung đoàn vẻ mặt không bằng lòng. Mọi người vẫn cúi đầu. Ông không cúi chào đáp lễ mà chỉ gật đầu rất nhanh và cảm thấy sự rung động trong khắp hàng quân khi bọn Samurai đứng thẳng lại. Tốt, ông nghĩ thầm, và nhanh nhẹn xuống ngựa, vui lòng thấy chúng sợ sự trừng phạt. Một Samurai cầm lấy dây cương rồi dắt ngựa của ông đi trong khi ông quay lưng lại với Trung đoàn và mồ hôi cũng ròng ròng như tất cả mọi người trong không khí ẩm ướt. Ông đi tới chỗ các phu nhân của mình.
“Kiri-san,chào mừng bà trở về nhà!”
Kiri mừng rỡ cúi chào.
“Cám ơn Đại nhân. Tôi đã tưởng không bao giờ còn được niềm vui sướng trông thấy Đại nhân nữa.”
(Kho tư liệu của hội NVHP)