
Xu hướng tìm về tâm linh là sự hình thành dựa trên những yếu tố cơ bản đã nêu. Thêm vào nữa là thời điểm, hoàn cảnh để cái tâm thức được giãi bày. Từ việc tổng hòa các “khâu” các “phần” và cả điều kiện thực tại thì vấn đề tâm linh được tìm đến như một như cầu, một xu hướng tất yếu. Và nó phát triển là nhờ vào quy luật vận hành ấy.
Theo tác giả Hồ Thị Tâm “Thơ đương đại là những nỗi khát khao tự nhận thức triệt để con người hiện đại. Nó đòi ghi hình trực tiếp diễn biến vật lộn sinh thành trong bóng tối của bản ngã đề cao, tuân thủ tuyệt đối hóa mục đích sáng tạo ngôn ngữ của thơ, muốn tạo nghĩa mới cho con chữ, muốn sống lại sự trinh nguyên của con chữ, để ngòi bút dẫn dắt bởi một lực dấu mặt, khiến đồng hiện bên nhau những mảnh vụn thực tại xa cách về không gian lẫn thời gian, giống như trong giấc mơ hòa tấu những ngôn ngữ của trí tuệ, tình cảm, trực giác, tiềm thức, tâm linh”[31;46].
Khuynh hướng đi về sâu vào những vùng mờ tâm linh mang đậm chất tượng trưng, siêu thực trong thơ không còn là cái hoàn toàn mới đối với thơ đương đại. Bởi để có được một hướng đi như ngày hôm nay, thì trước đó đã có sự manh nha và trải nghiệm của nhiều nhà thơ ưu tú. Họ là những người đi tiên phong và chấp nhận như những cánh chim lạc để tìm đến những chân trời mới. Tuy nhiên, ở mỗi thời kì lại có một cái hay riêng khó mà đối sánh rõ ràng. Nhưng dường như trong thơ đương đại thì vấn đề này đã trở thành một xu hướng mang nhiều giá trị với rất nhiều tác phẩm độc đáo đã định hình.
Ngay từ lúc cái tôi được giải phóng một cách mạnh mẽ thì nhiều tác giả của phong trào “Thơ mới” đã đi những bước đầu tìm về với vùng sâu thẩm của tâm hồn. Tiêu biểu hơn hết được nhắc tới có thể kể đến Hàn Mặc Tử. Thi sĩ không dừng lại ở sáng tác mà còn nêu lên quan điểm sáng tác của bản thân lúc bấy giờ. Đây cũng có thể xem như là một tuyên ngôn mới về sáng tác đối với thơ ca: “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá, tôi phản lại tất cả những gì máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên”[12;160].
A ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng
Tới đây là nơi tôi gặp được nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa vào rừng hoang
Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải
Chúng tôi kề đầu lên khối sao băng.
Chúng tôi nói chuyện bằng hơi thở
Dần dần hoa cỏ biến ra thơ…
Chúng tôi lại là người của ước mơ
Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang mộng.
Chao ôi! Chúng tôi rú lên vì kinh động
Vì trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi!
(Rượt trăng – Hàn Mặc Tử)
Không dừng lại ở đó, nếu Hàn Mặc Tử cho là như thế, thì trong lời mở đầu của tập “Điêu tàn” Chế Lan Viên lại thêm vào: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm thơ là sự phi thường, thi sĩ không phải là người. Nó là người mơ, người say, người điên. Nó là tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là yêu”.
Từ hai quan điểm trên, tác giả Nguyễn Mai Hương Trà đã rút ra một nhận định và khẳng định luôn đây chính là những bước đầu manh nha đáng phấn khởi để yếu tố tâm linh trong thơ phát triển hơn nữa về sau (tức là hình thành nên một xu hướng định hình mang giá trị). “Thơ là tư tưởng nảy sinh trong trạng thái siêu thăng của cảm giác. Đó là lúc cảm hứng đến như một “cơn sốc”, ý thức tỉnh táo mờ đi, lùi lại phía sau nhường phần lớn quyền điều hành cho tiềm thức, vô thức. Những ý kiến trên, dù đó là quan niệm riêng của cá nhân các nhà thơ nhưng lại rất gần với quan niệm của “Chủ nghĩa hiện đại” và tương đồng với chiều hướng vận động đi tới các phi lí tính trong văn học thế giới”[44;12].
Bên cạnh những tác giả của phong trào “Thơ mới”, được xem là dòng văn học “chính thống” lúc bấy giờ, thì còn có những nhóm tác giả cách tân quyết liệt hơn còn mang nhiều luồng phán xét cũng đã đi vào thế giới tâm linh qua thơ. Như tác giả Nguyễn Mai Hương Trà tiếp tục nhận định: “Sau thời kỳ lãng mạn thuần khiết, một số tác giả của Trường thơ Loạn. nhóm Xuân Thu nhã tập, nhóm Dạ đài tiến thêm một bước mới, đi vào tìm hiểu, khám phá những bí ẩn nằm trong chiều sâu tâm linh huyền bí với những chiều kích khác nhau của thế giới và con người. Từ quỹ đạo lãng mạn họ đã bước đầu dịch chuyển sang địa hạt tượng trưng và thậm chí đã có dấu hiệu của Chủ nghĩa siêu thực”[44;12].
Trên “Tạp chí sông Hương – Số 207” tác giả Trần Huyền Sâm cũng đưa ra nhiều minh chứng: “Hầu hết, các sáng tác của “Xuân Thu nhã tập” đã vượt lên tính xúc cảm, tính chất giãi bày cái tôi cá nhân của “Thơ mới”. Xuân Thu đã tiến đến chủ nghĩa tượng trưng ở tính ám gợi, tính biểu tượng, tính mơ hồ, huyền bí. Hoài Thanh cho bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ là một lối thơ rất tinh tế và kín đáo, nhưng hình ảnh mờ”[28].
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
(Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)
Cùng chung một cách nhìn về sự vận động trên, tác giả TS. Đặng Thu Thủy lại cho chúng ta một cái nhìn như khẳng định thêm một lần nữa ở giai đoạn tiếp theo. Tác giả nhận xét: “Dẫn thơ theo hướng này là các nhà thơ thuộc thế hệ trước 1975 – các nhà thơ “hiện đại chủ nghĩa” (theo cách gọi quen thuộc của thi giới): Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng… (tiếp nối bước chân của Xuân thu nhã tập, Dạ Đài). Họ có tham vọng khám phá “tâm lý học miền sâu”, “miền còn hoang dã” của con người. Xuất phát từ quan niệm: thơ chủ yếu là sự biểu hiện của cái tôi ở phần tiềm thức, vô thức, họ đã đưa thơ vào sâu trong các địa hạt này, khai thác những giấc mơ, mộng mị, hư ảo”[37;88].
Tác giả Nguyễn Mai Hương Trà cũng đưa ra nhận định: “Các nhà Hiện đại chủ nghĩa coi thế giới vô thức của con người là một lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá sáng tạo nghệ thuật. Chính vì vậy khi sáng tác họ đề cao tính ngẫu hứng, chú trọng việc ghi chép những cái xuất hiện lướt qua trong đầu, không qua sự kiểm soát của lý trí. Dựa vào kinh nghiệm của vô thức, tiềm thức, người nghệ sỹ để cho tác phẩm trôi chảy tự do theo ấn tượng vụt hiện của trực giác hay theo dòng liên tưởng. Các thao tác của tư duy như quan sát, chọn lọc, sắp xếp, liên kết… chỉ còn một vai trò thứ yếu, mờ nhạt trong quá trình sáng tạo. Bài thơ là sự vọt trào, bùng vỡ của ấn tượng, ẩn ức bị dồn nén lại trong tiềm thức, vô thức, gây cảm giác chúng nảy sinh tư nhiên, bất ngờ, không hề được định trước bởi ý thức của tác giả. Đó là bản chất của “lối viết tự động” mà các nhà siêu thực phương Tây thường nói đến”[44;40].
Con chim mang giấc mơ bay đi
Chú bé ngủ dưới trời sao sáng
Thanh thản
Đêm qua em mơ gì?
Tôi mơ thành chim
(…)
Chú bé là ai
Chú bé là tôi
Con chim là ai
Con chim là tôi
Giấc mơ là ai
Giấc mơ là tôi
Đêm qua
Tôi mơ thành tôi
Tôi mơ thành chim
Tôi mơ thành giấc mơ
(Đề tặng một giấc mơ – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Hay nữa, tác giả Nguyễn Văn Ba cũng góp cái nhìn của mình ở sự đi lên trong giai đoạn tiếp theo. Cái tôi tâm linh đã bắt đầu có một hướng đi. Tác giả chỉ ra rõ là nhờ “Đổi mới” khách quan và chủ quan từ ý thức tâm linh trong văn học được các tác giả thể hiện; đặc biệt nhận thấy qua thơ: “Nói tới ý thức tâm linh trong văn học, chúng tôi hướng tới đối tượng chính là nhà văn – người phản ánh và sáng tạo hiện thực. Không phải trong hoàn cảnh nào các cây bút của ta cũng ý thức một cách sâu sắc về bản chất hiện thực, trong đó không phải không có những ám ảnh của cái gọi là hiện thực chủ nghĩa hay siêu tưởng. Chỉ đến sau thời kỳ Đổi mới với tinh thần nhận thức lại, nhiều vấn đề hiện thực cuộc sống cũng như con người được đặt vào những trường nhìn mới, hình thành nên những quan niệm mới. Cuộc sống trong văn học sau Đổi mới đã hiện lên phong phú và đa dạng hơn nhiều so với các sáng tác ở thời kỳ trước”[1;33].
Đúng như các tác giả nhìn nhận, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm linh trong thơ ngày được thể hiện rõ hơn khi có nhiều hơn những điều kiện thuận lợi. Vẻ đẹp ấy cũng được nhiều hơn những chú ý và khám phá. Thực chất bản thân hay nói cách khác là tự thức ở các chủ thể sáng tạo đã giữ trong mình những yếu tố thuộc về thiên hướng thẩm mỹ này. Tuy nhiên, mỗi người lại có những tiếng nói khác nhau. Dù vậy, đến thời điểm hiện nay, họ đã đi chung trên một con đường khi thiên hướng cá nhân tâm linh đã thành một xu hướng định hình.
Chúng ta khẳng định yếu tố tâm linh trong thơ đương đại đã trở thành một xu hướng định hình. Bởi lẽ, nhìn lại một chặng đường ta không khó để kể đến những cái tên tiêu biểu; Từ đã thành danh ở chặng đường trước và vẫn phát huy sáng tạo cho đến hôm nay như: Hoàng Cầm, Chế Lan Viên, Phùng Khắc Bắc… Đến các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 8X (các gọi thông thường chỉ các cây bút trẻ sinh ra ở thập niện 80 của thế kỉ XX) đang sáng tạo mạnh mẽ như: Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Vĩnh Tiến, Văn Cầm Hải v.v…
Xu hướng tâm linh ấy được thể hiện trong thơ thông qua nhiều yếu tố biểu hiện như: vô thức, tiềm thức và tất cả lại được ý thức tâm linh dẫn đường. Tác giả Hồ Thị Tâm cho rằng: “Nói đến thơ đương đại không thể không nói đến vai trò của vô thức đối với việc sáng tạo”[31;46]. Theo từ điển triết học (M. 1986), vô thức được giải thích như sau: “1 – Những hành vi được thực hiện một cách tự động theo phản xạ, khi nguyên nhân của nó chưa kịp đi vào ý thức, là những ý thức không hoạt động tự nhiên, say rượu, giấc ngủ; 2 – Những quá trình tâm lý tích cực không tham gia trực tiếp vào mối quan hệ chủ thể và hiện thực (tiềm thức); 3 – Một lĩnh vực tâm lý đặc biệt tập trung những ý hướng, động cơ, những ham muốn vĩnh viễn và bất biến do bản năng điều khiển”.
Như vậy, vì thơ chính là hoạt động tâm lý của con người. Nó là nguồn sáng tạo cho những sáng tác mang màu tâm linh cá nhân. Đồng thời cũng phản ánh hiện thực. Nên những hiện thực ở đây được lý giải bằng chính tiềm thức. “Thơ đương đại thường có xu hướng quay về những ẩn ức quá khứ, những ám ảnh tiềm thức như một sự giải mã cho thế giới nội tâm của mình hoặc một số tác giả lại có xu hướng quay tìm về thế giới tâm linh với những vùng mờ, độ nhòe khó phân định, đậm chất tượng trưng siêu thực” – (Hồ Thị Tâm) [31;46,47]. Thế nhưng, thực chất cả hai xu hướng này chỉ cùng một mục đích và một biểu hiện là thể hiện cái tôi tâm linh trong thơ.
Hai yếu tố trên có thể được xem là hai mặt của một vấn đề có sự tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng chú ý rằng để có được điều đó thì bản thân chủ thể sáng tạo phải ý thức được điều đó. Tác giả Hồ Thị Tâm cũng đi đến kết luận: “Nhà thơ phải ý thức ngay cả vô thức của mình vì vô thức là vùng hoạt động chủ yếu của tưởng tượng của tình cảm, thiếu sự kiểm soát của lý trí, hình tượng, ý tưởng thường xuất hiện tự do nên không thể thiếu vắng vai trò của ý thức trong tổ chức, kết cấu làm cho tác phẩm hoàn thiện (…). Nó có vai trò to lớn trong sáng tác thơ vì gần với tính chất hồn nhiên, gắn trực tiếp với thế giới tinh thần của chủ thể”[31;49].
Cùng cách nhìn trên, khi sáng tác, thi sĩ Hoàng Cầm cũng cho rằng: “có ba cái thức đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức. Cũng đủ cả một cặp trí thức và tâm thức nữa. Ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức”[4;174]. Nhà thơ lý giải một cách ngắn gọn nhưng lại rất cụ thể, thâu tóm tất cả các nội dung mà ta đề cập; thứ tự trước sau. Đặc biết từ đó nhà thơ còn chú ý thêm cho ta hai dạng thức nữa mang tính gần gũi với ba dạng thức trên. Và ông cũng khẳng định mình sáng tạo nhiều hơn bằng tâm thức; như chứng minh rằng ông chủ trương chọn cho mình con đường tìm về với tâm linh của tiềm thức và vô thức, nhưng không quên cả ý thức; ý thức tâm linh (“ý thức tâm linh” đã được lý giải ở trên).
Thi sĩ Hoàng Cầm cũng có lần tâm sự về thơ của mình. Thơ ông luôn mang hòa màu hư – thực; mà cụ thể nói đến là về cảm hướng sáng tác, có lần Hoàng Cầm nói về hoàn cảnh ra đời của bài “Lá Diêu bông”: “… Tôi xoay người trong chăn về phái trái và ghi ngay. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng hẳn, một lát sau tôi ngủ thiếp đi. Sớm hôm sau thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè dòng kia, chữ nọ như xóa mất chữ khác. Phải mất gần tiếng đồng hồ, tôi mới tách ra được theo thứ tự đúng như người nữ nào đó đã đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Bài Lá Diêu bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải hiện tượng đó một cách khoa học”[5;202].
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều,
Cuống rạ.
Chị bảo: Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em đi tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ cắm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời…
ới Diêu Bông!”.
(Lá Diêu bông – Hoàng Cầm)
Còn tác giả Nguyễn Văn Ba cũng đưa thêm một thức mới trên sự kiến giải tương đồng: “Từ vô thức, ý thức, tiềm thức đến cái siêu thức, đó chính là những bước phát triển của ý thức tâm linh đỉnh cao của nó là cái siêu thức. Siêu thức ở đây không phải là cái không nhận thức được mà đó là sự nhận thức thế giới một cách hiện thực, sâu sắc nhất”[1;32]. Tác giả cũng lý giải cái siêu thức ấy: “…siêu thức như một hiện thực, một mạch ngầm ẩn của con người, chứa đựng một phẩm chất cao siêu của nó, đến việc giải thoát cái tâm linh ra khỏi những rào chắn của tôn giáo, triết học và các hệ tư tưởng huyền bí khác”[1;32].
Có thể nói thêm về cặp phạm trù tâm thức và trí thức, thực chất là hệ quả có được từ biểu hiện trên; là yếu tố cụ thể hóa sau biểu hiện. Thông qua đó, chúng ta có thể khám phá được cả tư duy sáng tạo và cảm quan thẩm mỹ của người viết. Hay cái siêu thức cũng chính là cái giá trị cao cả của tinh thần mà ta có thể cùng xếp nó vào những yếu tố tâm linh. Hơn thế nữa, từ những biểu hiện trên của cái tôi tâm linh sẽ lại dẫn đến thêm một hệ quả tất yếu là đưa thơ vào sâu hơn những vùng mờ, nhòe, lung linh, hư ảo. Cũng chính vì vậy mà thơ vừa xa mà lại vừa gần nhưng càng hiện thực hơn, mang đậm đặc trưng biểu hiện, màu sắc đặc trưng, tượng trưng siêu thực.
Xu hướng tìm về tâm linh là sự hình thành dựa trên những yếu tố cơ bản đã nêu. Thêm vào nữa là thời điểm, hoàn cảnh để cái tâm thức được giãi bày. Từ việc tổng hòa các “khâu” các “phần” và cả điều kiện thực tại thì vấn đề tâm linh được tìm đến như một như cầu, một xu hướng tất yếu. Và nó phát triển là nhờ vào quy luật vận hành ấy.