Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938)…
Trong việc sửa chữa lại một truyện ngắn trước khi in vào sách, Thạch Lam cho ta thấy tinh thần nhân văn của thời đại đã thấm vào ông tự nhiên và sâu sắc như thế nào.
Bằng những lời lẽ ôn tồn và dung dị, ông đã đề xuất một cách nhìn nhân hậu và hợp lý đối với những người từng đóng vai trò chủ đạo chèo lái xã hội VN nửa đầu thế kỷ XX: người Pháp.
Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938).
Nội dung Người đầm có thể tóm tắt như sau:
Một lần, tác giả tới xem chiếu bóng ở rạp Pathé (trông ra Hồ Gươm; sau đổi là rạp Hòa Bình, nay thành Nhà hát múa rối). Ở đó, ông gặp một người đầm, cùng đi xem với con gái. Có cái lạ là hai mẹ con người này chỉ ngồi ở ghế hạng nhì, chỗ vẫn thường dành cho người bản xứ. Chẳng những thế, ở bà toát ra vẻ khiêm nhường nhũn nhặn,“cái nhìn của bà rụt rè e lệ quá, khiến tôi ái ngại và cảm động”. Giờ nghỉ, ra ngoài, bà mua kẹo cho con, vẻ rất thân thiện với chú bé bán kẹo, nhất là khi thấy chú chạy vội đi vì sợ cảnh sát thì bà buồn hẳn.
Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, Người đầm kết thúc bằng cái cảnh ngoài trời “mưa bụi và gió lạnh”, còn hai mẹ con người đàn bà “lủi thủi đi trên con đường vắng” ra về. Từ đó, tác giả – nhân vật xưng tôi trong truyện – không gặp lại bà nữa.
Người chủ hiểu biết, độ lượng và cái nhìn thân thiện về kẻ xa lạ
Mấy thế kỷ đã qua, kể từ khi hai dân tộc Pháp-Việt có dịp tiếp xúc với nhau. Trong tâm thức người Pháp, người Việt thường hiện lên với những đường nét thế nào? Những hình ảnh này đã thay đổi ra sao theo thời gian? Bấy nhiêu câu hỏi lẽ ra phải sớm được đặt ra, và tìm lời giải đáp, qua các tác phẩm văn chương (cố nhiên là loại viết bằng tiếng Pháp).
Bởi gạt sang một bên những cái nhìn thực dân, có thể tin chắc là trong chừng ấy thời gian tiếp xúc, phải có nhiều người Pháp yêu mến người Việt, nếu không làm sao họ có thể có nhiều đóng góp vào việc hiện đại hóa xứ sở này đến thế.
Tiếc thay, vì quá bận bịu, ở ta chưa ai ngó ngàng tới chuyện này cả.
Tình hình cũng chả khả quan gì hơn khi nhìn vào phần viết ngược lại, tức câu chuyện “bóng dáng người Pháp trong tâm thức người Việt”.
Đại khái, chỉ biết rằng trong phần lớn trường hợp, người Pháp thường được phác họa như những kẻ lố lắng, thô lỗ, kỳ cục. Thơ Tú Xương tả cảnh thi cử:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng
Bài văn tế Francis Garnier, tương truyền là của Nguyễn Khuyến:
Mắt ông xanh lè – Mũi ông thò lõ – Tay ông cầm cờ – Miệng ông huýt chó – Nhà ông bày toàn những chai – Vườn ông trồng toàn những cỏ.
Cho đến giai đoạn xã hội Việt Nam trở nên ổn định và có phần thịnh trị, như từ sau 1932 trở đi, thì trong một đôi phen xuất hiện, hình ảnh này cũng chưa phải đã được cải thiện khá hơn.
Nhân vật công sứ trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng chỉ là một sơ đồ thiếu sức thuyết phục.
Trong khi đó, ở những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Lại chuyện con mèo, mấy ông Tây “sơ-vin” lại hiện ra chẳng có gì là gây được thiện cảm, người này tàn nhẫn lạ lùng, người kia ngẩn ngơ máy móc trong cách nghĩ, cách sống.
Đặt trong khung cảnh này mà xét, thì với Người đầm, Thạch Lam đã bộc lộ một cái nhìn và thái độ khác hẳn.
Tư thế của nhân vật xưng tôi ở đây, là tư thế một người chủ lịch lãm, đại lượng.
Ông không giấu rằng, ông có những tình cảm tốt đẹp với dân tộc Pháp, vừa muốn thân thiện với họ, vừa muốn hiểu biết họ.
Và sự thực là ông đã có một hiểu biết đến nơi đến chốn về dân tộc ấy, đến mức, chỉ hình ảnh một người đàn bà thôi cũng đủ gợi nên trong ông hàng loạt liên tưởng
“Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thờ cao trên bụi cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh, bên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quỳ đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người bên ấy”.
Quay trở lại với hình ảnh của người đàn bà trước mặt, lúc này ở tác giả không còn có sự phân biệt đây là dân Việt mình, kia là người Pháp nữa, mà chỉ còn duy nhất một nhân vật phụ nữ yếu đuối cần được che chở. Thạch Lam nhìn bà chẳng khác bao nhiêu so với cách ông vẫn nhìn những bà mẹ Lê, cô Tâm trong Cô hàng xén, cô Liên trong Hai đứa trẻ.
“Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn rầu âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây”.
Do chỗ được soi sáng từ một cái nhìn như thế, người đầm ở đây trở nên sinh động, trước tiên là có một đời sống nội tâm phong phú: nhạy cảm và biết điều; đơn độc song vẫn tế nhị; khiêm nhường cố thu mình lại, như bất cứ ai phải sống ở một nơi xa lạ, trong khi vẫn tìm cách khẳng định bản thân trước cái hoàn cảnh éo le và không có gì là dễ chịu ấy.
Về mặt nhận thức mà xét, giờ đây, người đàn bà trong văn Thạch Lam không còn là hiện tượng ngoại nhập lạ lùng kỳ quái, như vẫn thấy ở nhiều tác phẩm văn chương mà đã trở thành một con người bình thường, thành viên của một nhân loại thống nhất; kẻ khác đã trở thành chính ta, có nhiều cái ta trong hình ảnh kẻ khác ấy.
Vượt lên lối nhìn nhận thông thường
Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, nói đơn giản với một sự tỉnh táo vốn có, khi tả người đàn bà Pháp ngồi trong rạp chiếu bóng, Thạch Lam không quên lưu ý
“Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại còn thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa”.
Ở một đoạn sau, tác giả láy lại
:“Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng, như se lại, trước cái ác cảm bà đoán thấy ở xung quanh”.
Hóa ra, không phải cái nhìn của Thạch Lam là cái nhìn chung của mọi người về người đầm. Mà ngược lại, bởi biết rằng cái cách nhìn nhận của mình còn đang là đơn lẻ, nói đúng ra, vượt lên cao hơn hẳn với đám người quanh mình, nhà văn cảm thấy như được một sự kích thích thú vị và càng hào hứng theo đuổi những suy nghĩ riêng tư.
Rút cục, chúng ta có một thiên truyện nó như chứng tích cho sự trưởng thành của ý thức cộng đồng: sau giai đoạn thù hận, đến giai đoạn chấp nhận người Pháp, bởi biết rằng, trong khi mang tới nhiều đau đớn và bất hạnh thì đồng thời họ cũng là cái cầu nối để chúng ta đến với thế giới hiện đại, và nhiều người trong họ vẫn là những người đáng mến.
Cần nói thêm rằng không phải ngay từ đầu nhà văn đã dám đi đến cùng trên con đường được ông lựa chọn.
Trong bản in trên báo Ngày nay 1937, thiên truyện có một kết cục hơi khác với văn bản ngày nay chúng ta vẫn đọc. Đoạn ấy thế này:
Mấy tháng sau buổi xem chiếu bóng ở rạp Pathé, tác giả có dịp gặp lại người đàn bà kia, thì bà đã thực sự bị hoàn cảnh làm cho xấu đi.
Trong cung cách của một người Pháp nói tiếng Việt đã hơi sõi, bà quát mắng một người ăn mày
“Xin cái gì nữa, đồ bú dù”, còn cô bé con cũng “níu lấy áo mẹ, giơ chân đá về phía những đứa trẻ khốn nạn kia, mồm mắng câu mà cô đã học được của anh bồi: Cút, con khỉ ”.
Tóm lại người đầm hôm nào đã có đủ những thói xấu của đám người Pháp sống lâu ở Đông Dương.
Có lẽ là do căn cứ vào bản in báo này, mà Nguyễn Tuân, trong bài viết nổi tiếng dùng làm lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Thạch Lam in ra ở Hà Nội năm 1957, đã hạ những câu bình phẩm:
“Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng của một Người đầm (…). Qua cái hơi văn bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả”.
Nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, người đầm nói ở đây là đồng nhất ngay từ đầu, đồng nhất hoàn toàn, với hình ảnh một kẻ thực dân.
Ở chỗ này, người đọc hậu thế lại có dịp chứng kiến ngòi bút Thạch Lam tinh tế và tác giả đã cẩn trọng với trang sách của mình đến là ngần nào.
Nếu chỉ giữ lại như văn bản đã in báo thì suy cho cùng, cái nhìn của Thạch Lam về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh vẫn có nét gì đó hao hao như cái nhìn của những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và nhiều người đương thời.
Có lẽ vì sớm cảm thấy điều đó, nên một năm sau, khi đưa Người đầm vào tập Nắng trong vườn, Thạch Lam đã làm một cuộc thay đổi căn bản.
Đoạn văn diễn tả cái cảnh gặp lại lần sau bị tước bỏ hẳn.
Thay vào đó, chỉ là mấy câu buông lửng. “Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa”.
Nghĩa là nhà văn không muốn nhìn nhận cái việc người đầm bị “làm hỏng”.
Vẫn trân trọng lưu giữ “hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó”, tác giả kết thúc truyện ngắn bằng một ý nghĩ giản dị và đôn hậu. “Bây giờ chắc bà ta có công việc làm rồi”.
So với bản in báo, thì bản in sách có mất đi một chút sắc sảo trong cách nhìn nhận nhân tình thế thái, song nghĩ kỹ, nó lại trung thành với chính Thạch Lam hơn, nó trở nên nhất quán trong cái ấn tượng mà nhà văn này , tự phân biệt với tất cả những người khác, muốn để lại trong tâm hồn bạn đọc.
Với văn bản hiện nay, người đọc cảm thấy càng âm vang lên niềm ao ước âm thầm của Thạch Lam, có lẽ nó đã là lý do chính thôi thúc ông viết Người đầm:
“Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà”.
Người đầm cũng như nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, được viết bằng một bút pháp cổ điển, nhưng ý nghĩa của mỗi dòng chữ, lời đề nghị toát ra qua tác phẩm thì với con người hôm nay vẫn còn là một cái gì mà chúng ta không dễ với tới.
Viết thêm 16-5-2014
1/ Trong các giáo trình về văn hóa VN, một số nhà nghiên cứu thường khái quát là dân ta sống trong hiếu hòa thân thiện với người các xứ khác. Dân gian thì tự bảo với nhau người mình có thói quen với ai cũng ân cần niềm nở và được tiếng là mến khách.
Nhưng trong thực tế hôm nay không phải như vậy hoặc đúng hơn không chỉ có vậy. Thái độ của người dân cả Hà Nội lẫn các địa phương với người nước ngoài đến làm việc và du lịch được báo chí miêu tả gần đây cho thấy một xu thế khác. Trong cơn khủng hoảng xã hội, nhiều người Việt đang tìm cách đổ vạ cho bất cứ người nào chúng ta ngẫu nhiên gặp trên bước đường kiếm sống của mình. Đám khách phương xa vô tội kia tự nhiên trở thành đối tượng để người dân ở các đô thị xoay sở kiếm chác kể cả chặt chém lừa lọc, ăn cắp, cướp giật.
Tại sao lại có tình trạng ấy? Hàng ngày người mình đối xử với nhau cũng đã không ra gì. Cái đó có. Nhưng đằng sau đó còn cái quan niệm hẹp hòi của mình về người nước ngoài, đại khái cho rằng họ là hậu duệ của những kẻ đến đây theo chân quân xâm lược.
Và điều quan trọng là họ thì quá sướng trong khi chúng ta quá khổ, thành thử trong nỗi đau khổ của chúng ta, họ có lỗi.
2/ Trở lên mới là mới thử kiểm điểm trên phương diện sinh hoạt hàng ngày.
Xét mối quan hệ với nước ngoài trên các vấn đề hình thành và phát triển của quốc gia, còn nhiều câu hỏi phải đặt ra.
– Sự có mặt của người nước ngoài ở xứ ta qua thời gian cả ngàn năm nay có đặc điểm gì?
– Vai trò của yếu tố ngoại lai trong các phương diện kinh tế chính trị văn hóa ngôn ngữ?
– Nhà nước phong kiến ở ta thường nhìn nhận các quốc gia khác thế nào?
– Người dân thường ở ta thường nhìn người nước ngoài thế nào?
– Mối liên hệ giữa tự ý thức dân tộc với cách hiểu về sự chung sống với các dân tộc khác trên thế giới? Sự chệch hướng của mối quan hệ đó trong thời gian chúng ta bận bịu vì cuộc chiến tranh?
…..
Đây không phải là công việc một người có thể làm được song cần phải có người nào đó bắt đầu đi, rồi những người khác sẽ đi xa hơn.
3/ Trước mắt bản thân chúng tôi thấy có một thắc mắc. Đằng sau mối ác cảm của đám đông người Việt với người nước ngoài, mà Thạch Lam cảm thấy và trình bày rất rõ trong truyện Người đầm, là gì? Phải chăng ở ta vừa có hiện tượng sùng ngoại lẫn bài ngoại? Nghĩa là chúng ta chưa tìm thấy một cách xử lý đúng đắn khi quan hệ với những kẻ khác từ xa tới , mà còn để cho những tình cảm bản năng bột phát chi phối ?
Về sùng ngoại, bao gồm cả sự ỷ lại vào nước ngoài, thì nhiều tài liệu ở ta đã nói tới.
Còn cái ý bài ngoại là do tôi đọc được từ Phan Châu Trinh. Trong bài viết Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam , cụ Tây Hồ có lẽ là người lần đầu tiên dùng tới chữ này nhân nói về cụ Sào Nam.
Theo Phan Châu Trinh, cá tính con người Phan Bội Châu biểu hiện “những quán tính lâu đời của người Việt Nam, gồm những mặt tốt đẹp nhất cho tới những mặt thiếu sót, kém cỏi nhất” .
Cụ Tây Hồ giải thích thêm “… Ông ấy — tức Phan Bội Châu VTN chú–là người đại biểu cho những tập quán có từ ngàn xưa trong lịch sử của dân tộc nước Nam. Không biết chân tướng của người nước Nam, xem ông ấy thì biết được. Người dân nước Nam rất giàu tính bài ngoại, ông ấy bài ngoại đến chỗ cực đoan. Người nước Nam rất thích ỷ lại vào người nước ngoài thì ông ấy ỷ lại đến chỗ cực đoan. Người dân nước Nam rất thiếu tính tự lập thì ông ấy lại càng thiếu cùng cực. Tính cách và trình độ của ông ấy nhất nhất đều tương hợp với tính cách và trình độ của quốc dân, bởi vậy ông nhân ưu điểm và khuyết điểm của quốc dân mà lợi dụng. Đây là điều thầy thuốc gọi là thuật ‘lấy độc trị độc’ (tắc nhân tắc dụng chi thuật)” .
Trích theo bài viết của Vĩnh Sính
Ý nghĩa tác phẩm Tân Việt Nam của Phan Châu Trinh(http://www.chungta.com.vn/nd/tu-lieu-tra-cuu/y-nghia-tac-pham-tan-viet-nam-cua-phan-chau-trinh/default.aspx)
4/ Xin nhắc lại trên đây là điều tôi còn đang thắc mắc và sẽ chưa thể tin nếu chưa tìm cho mình rất nhiều bằng chứng khác. Hơn nữa, vấn đề không đơn giản chỉ là gán cho dân tộc một đặc tính, như thể dán một cái nhãn hiệu. Sẽ là cần thiết hơn sau khi nói đặc tính ấy ta phải miêu tả tình trạng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể và tìm ra cách giải thích sự hình thành và phát triển của nó.
Điều có thể chắc: Chúng ta chưa đưa vấn đề quan hệ với người nước ngoài lên bình diện ý thức. Chúng ta còn quá cẩu thả trong các mối quan hệ đó, nói cách khác là chưa bàn bạc trao đổi với nhau thường xuyên để tiến tới cả cộng đồng có một nhận thức hợp lý từ đó mỗi cá nhân có cái nhìn hợp lý và cả quốc gia có sách lược chiến lược cụ thể.
Suy cho cùng mọi chuyện xuất phát từ chỗ ta chưa chịu đặt mình vào đại gia đình nhân loại.
Với kẻ khác, lúc thì ta kiêu căng, lúc thì ta sợ sệt.
Điều có thể còn chắc chắn hơn nữa – là rất nhiều lần ta rơi vào tình trạng mâu thuẫn, đỏng đảnh, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác.
Trước những người đã có lúc làm ơn cho ta, ta cũng biết đấy, nhưng lúc điên lên lại quệt mỏ bất cần, qua sông đấm buồi vào sóng.
Với những kẻ đến xâm chiếm ta, ta chỉ nhăm nhăm tiêu diệt cho hả giận mà không biết cách hóa giải các lực lượng đó và ngăn chặn từ xa, lại càng không biết biến thù thành bạn.
Nhất là đối với các đối tượng có lúc là thù có lúc là bạn, thì lại càng tự áp đặt cho mình một lối nghĩ cứng quèo mà không có sự phân biệt, nhất là có sự gạn đục khơi trong cần thiết cho sự phát triển lâu dài.
Trong một cuốn sách danh ngôn tôi đọc được một câu đại ý khi đã vong ơn với người đã có lúc cứu giúp mình thì người ta cũng dễ liếm gót giày kẻ đã đạp vào mặt mình.
5/ Có hai tác phẩm của Nguyên Hồng viết từ trước 1945, tôi được học trong chương trình trung học khoảng 1958-60, và cứ nhớ mãi nhưng các bạn trẻ hiện nay ít biết. Cả hai cùng nhắc nhở tôi tới truyện Người đầm nói trên của Thạch Lam.
Một là truyện Buổi chiều xám, vẽ lại hình ảnh một người lính Nhật với sự thông cảm cao độ. Người lính đó đến VN làm nhiệm vụ một tên lính của đội quân xâm lược. Nhưng dưới con mắt của tác giả, người lính đó vẫn hiện lên như một con người . Khi thấy một bà mẹ bế một em bé đi qua, hắn luống cuống xô đến bộc lộ tình cảm thân thiện như để khuây đi nỗi nhớ nhà vẫn đau đáu trong lòng.
Một nữa là truyện Người đàn bà Tầu, sau đổi tên là Một người mẹ Trung quốc. Người đàn bà nhếch nhác nói ở đây dẫn một lô một lốc mấy đứa con sang Việt Nam chạy loạn. Trong cảnh khốn cùng bà nhanh chóng thấu hiểu mọi nỗi đau của người dân ở xứ sở vừa đặt chân tới, và tác giả thì tỏ thái độ cảm thông và khâm phục với người đàn bà xa lạ ấy.
Tôi không nhớ thời tiền chiến còn có truyện nào tương tự, nhưng chỉ cần hai thiên truyện trên, đủ thấy cái nhìn của Thạch Lam trong Người đầm là không đơn độc. Các tác phẩm này là một khía cạnh làm nên tính nhân bản của văn học 1932-45, nó là cả một truyền thống mà từ sau 1945, nhất là từ sau 1960 thì chúng ta từ bỏ để chỉ tập trung vào làm một nền văn học phục vụ chiến tranh — vì thế mới có chuyện nhiều tác phẩm tiền chiến có giá trị song động khác đi một tí là bị phớt lờ, bị cấm đoán. Nhưng khi cả đến Nguyễn Tuân sau 1945 cũng từ bỏ tinh thần nhân bản này, do đó không hiểu được Người đầm của Thạch Lam như trên đã dẫn, thì chúng ta đủ hiểu cái định hướng của thời đại đã làm biến dạng con người ta đi như thế nào.
VTN