Thơ cách tân và thi pháp nghệ thuật mới (kỳ 1) – Nguyễn Vũ Tiềm


Mới đây, Website nhavanthphcm.com.vn có đăng toàn văn bản chính bài khảo cứu về thơ cách tân đầu thế kỷ XXI của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Mới đây, Website nhavanthphcm.com.vn có đăng toàn văn bản chính bài khảo cứu về thơ cách tân đầu thế kỷ XXI của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm

I. GIỮA HAI TỬ LỘ, TÌM MỘT SINH LỘ CHO THƠ

Sang thế kỷ XXI, trước sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, không ít người đặt vấn đề: thơ có thực sự cần thiết trong đời sống hay không? Tại sao không nói chẻ hoe ra mà cứ phải thông qua các “gián cách thẩm mỹ”, các hình ảnh ẩn dụ cho rắc rối mất thì giờ? Sự ngoảnh mặt và báng bổ đối với thơ không phải hiếm. Và đây đó mơ hồ người ta đã hình dung cái mệnh hệ nào đó của thơ và bóng gió rằng đừng có giây vào.

Nhưng dẫu nghi ngờ về tác dụng của thơ đến đâu chăng nữa cũng phải thừa nhận một điều là nhiều bài thơ đạt tới độ toàn bích khiến Người-Khổng-Lồ-Thời-Gian phải cúi đầu nhường bước làm sao điểm hết: từ IliadOdyssey, Đường thi rồi Lá Cỏ của Walt Whitman Thơ Dâng của Tagore hay đến những nhà thơ nổi tiếng của nước ta: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên…

Giả sử không có sự đóng góp của họ, không có loại hình thơ ca, đời sống văn hóa tinh thần, đạo đức của nhân loại nói chung, của nước Việt ta nói riêng nghèo nàn biết chừng nào và hệ quả tai hại của nó ai mà lường hết được?

Mới đây tôi lại bàng hoàng như thể nghe tin một người thân yêu của mình vừa trút hơi thở cuối cùng. Ấy là tôi đọc trên báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn VN) số 31, 2-8-2014, bài “Thi ca Mỹ sau thời độc sáng” của Trần Ngọc Cư (một nhà văn VN sống ở Mỹ): “Thập niên 60 (TK20) dã chứng kiến sự ra đi của ba nhà thơ lớn là Robert Frost (1874-1963), Carl Sandburg (1878-1967) và Langston (1921-1967); tiếng chuông chiêu hồn những vị này dường như cũng là hồi chuông báo tử cho thi ca Mỹ.

Vào khoảng thập niên 90, Nàng Thơ coi như đã trút xong hơi thở cuối cùng trên xứ Cờ Hoa. Độc giả yêu thơ như phần lớn người Việt ta, chắc sẽ bàng hoàng và cho đây là một phát biểu ngoa ngụy. Dẫu nói thế nào đi nữa, không ai có thể bắt người khác phải tin vào một điều gì mà không cần thực chứng. Thực chứng đó là: trong các loại hình văn học nghệ thuật hiện nay ở Mỹ, thi ca có lẽ là loại hình có số người viết vượt quá xa số người chịu bỏ thì giờ ra để đọc”…

“Đối với tuyệt đại đa số độc giả Mỹ, có lẽ thi ca đã làm xong vai trò lịch sử của nó và đang đi vào màn đêm của dĩ vãng”.

Ừ nhỉ, tĩnh tâm nghĩ xem có cái gì bất biến? Thơ ca ở Mỹ, Pháp sắp trở thành di sản thuộc về quá khứ, thơ Việt thì sao? “Số người viết vượt quá xa số người chịu bỏ thì giờ ra để đọc” đã và đang diễn ra ở xứ Cờ Hoa, hình như cũng bắt đầu có dấu hiệu ở dải đất hình chữ S chăng? Thực chứng đây: các ấn phẩm thơ in ra ngày càng nhiều, hỏi có mấy người mua?

Đã vậy sao tôi còn sưu tầm và bình thơ cách tân? Thật là lẩn thẩn! Nhưng trộm nghĩ, quy luật vận động, phàm cái gì không chịu đổi mới làm sao tồn tại được, thơ không là ngoại lệ, cũng “chết”, nhưng “chết” từ từ; mà cách tân theo cách nào đó (như cách tân cực đoan, không ai hiểu và cảm được gì cả; thơ phá vỡ kết cấu ngôn ngữ) thì sẽ làm cho thơ đột quỵ, “héo sữa” sớm hơn.

Trước hai tử lộ kia, tương lai thơ Việt sẽ ra sao? Chả lẽ không còn một sinh lộ nào ư?

Có đấy! Đó là thơ cách tân đúng hướng, được người đọc chấp nhận. Tôi tìm đến với loại thơ còn tương đối hiếm và mong manh trên cái sinh lộ cũng mong manh này.

* * *

Từ thế kỷ trước, ngay khi phong trào Thơ mới vừa chiếm ngự thi đàn, nhiều nhà thơ đã quyết vượt Thơ mới làm cuộc cách tân thơ như nhóm Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài… Sau Cách mạng tháng Tám: Trần Dần, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Lê Đạt, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng… nối tiếp cách tân thơ. Dễ nhận thấy một thành công đáng kể của Hữu Loan trong bài “Đèo Cả”:

Chân đèo
máu giặc
mấy lần
nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu…

Chế Lan Viên chuyển đổi thi pháp rất sớm trong chùm bài “Những cành phong lan biển”, “Tàu đến tàu đi”. Nhưng rõ nhất là tập “Những bài thơ phác thảo”, sau đó in sách đổi là “Di cảo”.

Sau 1954, Miền Nam có nhóm Sáng Tạo, tiêu biểu là Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa:

Tôi thèm sống như thèm chết

Giữa hơi thở giao thoa

Ngực cháy lửa

Tôi gọi khẽ

Em

Hãy mở cửa trái tim

Tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ

Trong sạch như một lần sự thật.

Thanh Tâm Tuyền

 

Vẫn hỏi

lòng mình là hương cốm

chả biết tay ai làm lá sen.

Nguyên Sa

Đặc biệt, tôi rất ấn tượng bài của Triệu Từ Truyền, mỗi lần đọc lại, sống mũi như chạm phải khói lựu đạn cay:

NGHĨ TỚI EM

Anh gắn lên môi điếu thuốc chưa đốt

Vì không hộp quẹt

Có dòng khói từ trong mũi bay ra

Dòng khói của trái đạn cay

Và giọt máu hồng

Trên đầu điếu thuốc của anh

Anh nghĩ tới em

Điếu thuốc đã tàn

Dù không hộp quẹt.

(11-1960)

Khát vọng sáng tạo không lúc nào ngưng nghỉ nhưng do nhiều biến động thời cuộc, khát vọng ấy lúc sôi nổi, lúc lặng lẽ kín đáo. Một số thành tựu của thế hệ trước dù ít ỏi, nhưng những bài đặc sắc vượt thời gian thì thế hệ cách tân của đầu thế kỷ XXI không thể không ngả mũ.

Trên hành trình thời gian, ở mỗi cột mốc đặc biệt thường có những cú hích mạnh, tạo chuyển động mang “dấu ấn lịch sử”. Những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều cuộc hội thảo chuyên đề thơ của Hội Nhà văn Việt Nam và ở các Hội địa phương đã góp phần thúc đẩy cách tân thơ. Đặc biệt là hai cuộc hội thảo về thơ của hai nhà thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn do Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng tổ chức ngày 15-5-2011; cuộc hội thảo “Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều” do Viện Văn học Việt Nam tổ chức ngày 28-6-2012 như những hồi chuông giục giã trước bình minh.

Những đánh giá ngược chiều nhau, những cuộc tranh cãi trên báo giấy báo mạng bùng lên như sóng thần làm sôi sục biển thơ vốn phẳng lặng như cái ao tù. Không thích những gì đều đều nhàm chán là tâm thế chung nhất là thời đại hiện nay, ý thức rõ điều này là vô cùng thiết cốt đối với người cầm bút.

Nhà thơ Bùi Kim Anh than thở về thơ trong bài “Bản thảo mắc nợ”:

“Và những người làm thơ cũng chẳng buồn đọc thơ nữa

giẫm vết chân mình ta giẫm chân nhau”.

Thơ là gì mà lạ lùng thế? Nhà thơ Blaga Dimitrova có lúc bật ra lời than thở: “Ôi, nếu tôi biết thơ là gì thì cả đời tôi đã chẳng khổ sở đến thế”! Thì ra thơ chả bao giờ yên vị để người ta nghiệm suy định giá mà luôn biến đổi một cách kỳ ảo; vừa tìm ra cái định nghĩa về nó thế này rồi, chữ chưa khô mực nó đã hiện hình ra thế khác rồi; nền thơ nào, nhà thơ nào tự yên vị dễ đồng nghĩa với thất bại!

Trong cuộc hội thảo tập thơ “Hoài nghi và tin cậy” của Nguyễn Vũ Tiềm tại báo Văn Nghệ ngày 18.2.2004, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Văn VN phát biểu, ông sốt ruột kêu lên “Thơ của chúng ta cũ lắm, cũ không chịu nổi”! Và ông kêu gọi các nhà thơ “Phải mau chóng đổi mới, đổi mới quyết liệt”!

Các nhà thơ nhà văn chân chính không bao giờ bằng lòng với thành quả đã có bởi họ biết rõ thời gian luôn vượt lên tất cả.

“Chưa viết giấy đã cũ
Chưa viết sông đã đầy…

Chưa viết chợ đã đông
Chưa viết đồng đã bạc”.

Hữu Thỉnh

* * *

Trên con đường tìm tòi sáng tạo, mỗi nhà thơ có cách đi riêng, có thất bại ngậm ngùi, có thành công trong mồ hôi nước mắt; nhiều thể nghiệm dở dang và phần lớn là đoạn kết còn bỏ lửng.

Lớp nhà thơ có thành tựu từ thế kỷ trước như Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Thanh Thảo, Thi Hoàng, Trần Mạnh Hảo, Trần Nhuận Minh, Hoàng Hưng, Lê Khánh Mai, Inrasara, Trương Nam Hương, Từ Quốc Hoài, Phạm Đình Ân… có những bứt phá ngoạn mục trong việc tự tắm giặt tẩy trần. Ở một hướng khác, cũng xuất hiện không ít hiện tượng đổi mới bằng “mông má” tân trang.

Trong quá trình đi tìm thơ cách tân, tất nhiên phải nhìn tổng thể, nhưng không thể không chú ý hơn đến lớp @ của thế kỷ mới, lứa 8X, 9X, thế hệ vàng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Họ lớn lên trong bối cảnh lịch sử một đất nước đi sau nhưng cháy bỏng khát vọng vượt lên, đón đầu. Đồng thời mặt trái của cơ chế thị trường khiến những kè đá niềm tin bị xói lở từng mảng lớn, sự suy thoái đạo đức nhân phẩm của bộ phận không nhỏ nhưng “không biết nó ở đâu” trong cộng đồng khiến người nào cũng phải cài quanh mình nhiều camera phòng hộ.

Thế hệ vàng ấy được thừa hưởng nền văn học truyền thống giàu tính nhân văn mà không bị ràng buộc bởi phương pháp sáng tác “thắt trói” hay “cởi trói” nào và chuyện húy kỵ cũng không còn nặng nề như trước. Họ cũng không phải lo lắng nhiều như thế hệ cha anh phải đi trong hành lang quá hẹp, phải “tự bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để đi lại được thoải mái trong cái hành lang kia” (Nguyễn Minh Châu).

Những thập niên cuối thế kỷ XX, đường lối “Đối ngoại rộng mở” đã tạo điều kiện cho sự hội nhập toàn cầu của Việt Nam. Về lĩnh vực văn học nghệ thuật, chúng ta tiếp cận với nhiều lý thuyết và các trào lưu mới mẻ phong phú của các nước tiên tiến. Cùng với sự bùng nổ thông tin, chủ nghĩa “Hậu hiện đại” như luồng gió lạ thổi thốc vào văn đàn Việt Nam khiến không ít nhà văn bị cảm cúm liên tục, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Thế hệ con cưng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã có thể chới với hay e lệ làm quen với các khái niệm mới: “cảm quan hậu hiện đại”, “siêu truyện”, “giải nhân cách hóa”, “Pastiche” (Nhại lại), “mã kép”, “phi lựa chọn”, “bất tín nhận thức”, “ngoại biên”, “liên văn bản”, “mặt nạ tác giả”… Thực ra những khái niệm này ở Âu, Mỹ người ta đã cất vào kho lạnh từ thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, gần đây E. A. Tzurganova và I. P. Ilin biên soạn lại mang ra hâm nóng rồi “tiếp thị” vào nước ta. Những khái niệm mới mẻ đó dù sao cũng là phương tiện hữu hiệu tiếp cận văn chương đương đại mà các nhà văn (ở miền Bắc) trước đây chỉ có bột mì, bo bo thay thế.

Một vấn đề quan trọng bậc nhất của người cầm bút mà thế kỷ XX ít đề cập đến và các nhà văn cũng cố tình quên bẵng đó là tính độc lập của chủ thể sáng tạo và vấn đề thoát khỏi bóng rợp của cây cao bóng cả mà không ít trong số đó là bóng ảo.

Phần lớn các nhà thơ của thế kỷ trước đều mang trên đầu mình cái bóng của các nhà thơ Trung Hoa, Pháp hoặc Nga. Các nhà thơ lớp sau lại mang trên đầu mình bóng rợp của lớp trước. Nhiều lúc nhìn nhau ngán ngẩm nhưng rồi các “sĩ phu” tặc lưỡi: “gặp thời thế thế thời phải thế”.

Lớp nhà thơ cách tân đầu thế kỷ XXI ý thức rất rõ hiện trạng này, nếu không thoát khỏi bóng của người khác, không tạo ra được dấu ấn gì của riêng mình thì dẫu có “đóng cửa phòng văn hì hục viết”, tác phẩm in ra xếp cao ngập đầu thì vẫn không nhỉnh hơn con số không là mấy, có khi là số dư âm!

Họ có ý thức tránh các lối mòn, tránh những sai lầm, lỡ bước của thế hệ đi trước thơ phải “chân chân chân, thực thực thực” làm cho thơ “khô như ngói” nhưng lại mong: “Mai mốt thơ sẽ được bán bằng tem phiếu”! (Cùng hàng với các ô: thịt, đậu, cá, tương, mắm… có một ô in chữ “Thơ”)!

 

II. CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP – SỰ KHÁC LẠ BẤT NGỜ

Để tránh rơi vào khen chê cảm tính, tôi xin điểm một số trường hợp cụ thể về chuyển đổi thi pháp kèm theo với chuyển đổi nội dung thơ ở thời điểm đặc biệt cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI:

1. Cuối TK XX, Nguyễn Lương Ngọc có bài thơ thể hiện khát vọng đổi mới của ông:


Hội họa lập thể

Khi mắt đã no nê

Những quy tắc lên men

Khi sự thật bị thay bằng cái giống như sự thật

Có gì không ổn

Có gì như bệnh tật

Khi mồ hôi vẫn ê a thiên chức nghệ sỹ

Anh không muốn nhìn những gì mình đã vẽ

Chính nước mắt, hay máu tứa ra từ cái nhìn bền bỉ

Đã cho anh chiếc lăng kính này đây

Để anh đủ sức đập vụn mình ra mà ghép lại

Nung chảy mình ra mà tìm lõi

Xé toang mình ra mà kết cấu

Em tặng anh cát

Đây nó là thủy tinh

Em tặng anh dòng sông

Đây nó là ánh sáng

Em tặng anh chính anh mà em vừa tìm được

Đấy là em.

Nguyễn Lương Ngọc

Thật quyết liệt: đập vụn, nung chảy, xé toang mình ra để kết cấu lại. Hình tượng người nghệ sĩ với khát vọng sáng tạo đẹp lộng lẫy. Tiếc là vừa mới khởi đầu anh đã vội kết thúc bởi sự ra đi đột ngột vào năm đầu tiên thế kỷ XXI (2001) ở tuổi 43.

Cách Nguyễn Lương Ngọc mấy năm, đầu TK XXI, Nguyễn Quang Thiều viết:


Những con mồi

Đêm qua những con cá bơi quanh chiếc giường

Ngửi chúng ta rồi bỏ đi

Và bực dọc nói:

Chúng ta không bao giờ ăn những con mồi chết.

Chúng ta có chết không?

Một người thức giấc hỏi.

Nhưng chẳng có câu trả lời nào.

Ngoài bóng một bác sĩ tâm thần ghi bệnh án

In trên bức tường phía đông.

Trên đầu chúng ta, những con cá

Bơi lùi về quá khứ

Chúng muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu

Nhưng chỉ còn lại một nhà kho mục nát

Trong đó một chiếc đồng hồ

Chạy từ lúc chúng ta chưa biết đến thời gian.

Giữa bất tận những con mồi

Bầy cá nhắm mắt

Chỉ mở ra khi nghe lệnh

Nhưng một con không chịu nhắm mắt

Trong suốt cuộc săn tìm

Rời bỏ bầy quay lại

Và nói với một con mồi:

Ngươi đã hết thời gian chết!

Cái quyết liệt cách tân trong bài “Hội họa lập thể” của Nguyễn Lương Ngọc thì thời Thanh Tâm Tuyền – Nguyên Sa có thể có. Nhưng lối tư duy quyết liệt đẩy tới tận cùng trong bài “Những con mồi” của Nguyễn Quang Thiều khiến người đọc liên tưởng đến một cái chết gì đó nguy hiểm hơn nhiều so với cái chết sinh học thông thường để cảnh báo một nguy cơ thì thời Thanh Tâm Tuyền – Nguyên Sa và Nguyễn Lương Ngọc không có.

2. Các nhà thơ nữ nhẹ nhàng hơn nhưng không kém phần “đáo để”. Thử so sánh cùng một hoàn cảnh “cài và mở nút áo” rất nữ tính:

Năm 1985, Dư Thị Hoàn viết:


Tan vỡ

Mở ngăn kéo rồi, anh bỏ ngỏ

Bút viết xong không đậy nắp bao giờ

Ôi anh yêu, lơ đãng đến là

Con nai rừng của em…

Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi

Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng

Nếu không có một lần…

Một lần như đêm nay

Sau phút giây

Êm đềm trên ghế đá

Anh không cài lại khuy áo ngực cho em.

Năm 2005, Ly Hoàng Ly viết:

Mở nút áo

Chầm chậm, mở một chiếc nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo

Chầm chậm, mở ba chiếc nút áo
Soi vào gương, chầm chậm, mở chiếc
nút thứ tư

Chầm chậm, mở năm chiếc nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở nút thứ sáu…

Tìm hoài không thấy nút thứ sáu
Soi vào gương, cố tìm nút thứ sáu,
nút thứ bảy, thứ tám, thứ chín…

Mở mãi, muốn mở mãi
Mở bầu trời đêm trong lồng ngực

Nhưng áo chỉ năm nút
Nhưng đêm là vô tận

Mở mãi, muốn mở mãi
Mà bầu ngực vẫn trắng, không đêm

Mở mãi, muốn mở mãi
Bầu ngực này căng đêm
Soi vào gương
Bất lực và khóc

Trong vô vàn những giọt nước mắt
Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng.

Một người muốn cài cúc vào cho đúng khuôn phép “thày mẹ dạy”, thể hiện tinh thần biết tôn trọng người yêu; một người muốn mở hết, mở đến tận cùng để khám phá bản thể, tự vấn lương tri đồng thời muốn cởi tung những trói buộc với khát vọng tự do.

Phóng túng và nghiêm khắc của Dư Thị Hoàn thì thời Hồ Xuân Hương đã có (mà còn đáo để hơn), nhưng khám phá bản thể và khát vọng tự do cùng cách thể hiện tự nhiên giản dị của Ly Hoàng Ly thì thời Hồ Xuân Hương, hay gần hơn, thời Anh Thơ, Dư Thị Hoàn không có.

3. Cuối thế kỷ XX, cậu bé mười tuổi Trần Đăng Khoa viết:

Đám ma bác giun

Bác giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến đất bạc đầu
Khóc than kiến cánh khóac màu áo tang
Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến gió bay ra chia phần…

Đầu thế kỷ XXI, cậu bé lên mười tuổi Đặng Chân Nhân viết:

Cuộc sống 3

Cuộc sống là một món quà hay một lời nguyền?

Chúng ta có phải là thần

bị biến thành người

để có thể cảm thấy cái chết?

Chúng ta có phải là quỷ

được biến thành người

để có thể cảm thấy tình yêu?

Tại sao chúng ta lại ở đây?

Cuộc sống có phải một sự thử thách

để chúng ta sống sót

hay là để chúng ta chứng tỏ bản thân mình?

Chúa là một người bí ẩn,

nếu ông tồn tại.

Hầu hết các bài thơ Đặng Chân Nhân được viết bằng tiếng Anh, sau đó em dịch về tiếng Việt, một cách để luyện tiếng Anh chăng? Bài thơ trên em dịch từ Life3.

Những hình ảnh cảm động và hóm hỉnh trong“Đám ma bác giun” cũng là hình ảnh của cuộc sống con người, ai cũng dễ nhận biết và đồng cảm. Nhưng những điều tự vấn và triết luận trong “Cuộc sống 3” của Đặng Chân Nhân thì không dễ gì ai cũng chia sẻ ngay được.

4. Một dạo hay đi nói chuyện thơ, tôi thường thuộc lòng nhiều bài thơ vui của Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh để minh họa cho rôm rả.

đừng chê anh khoái bụi đời
bụi dân sinh ấy bụi người đấy em
Xin nghe anh nói cực nghiêm
linh hồn cát bụi ở miền trong veo.

Nguyễn Duy

Cái gì không địch, không ta

Xét ra thì nó chính là… các em!

Bùi Chí Vinh

Đó là cuối TK XX.

Đầu TK XXI, Nguyễn Thế Hoàng Linh:

Tôi hỏi một không tám không

chị ơi nỗi nhớ thì lông màu gì?
chị tổng đài giọng nhu mì:
à nhiều màu lắm vặt đi vẫn nhiều
hình như là bạn đang yêu?
không, em chỉ hỏi những điều hồn nhiên
hình như là bạn đang điên?
vâng, điên thì mới phí tiền hỏi han
xong xuôi hết bốn chín ngàn.

Lời răn của Chúa

khi sinh ra mỗi con người, Chúa bảo
mỗi bàn tay cần nắm một bàn tay
cả loài người lần lượt làm theo ngay.

kẻ lấy bàn tay phải nắm lấy bàn tay trái
kẻ lấy bàn tay trái nắm lấy bàn tay phải

Chúa thấy vậy lắc đầu ái ngại:
Biết thế mình đừng bảo cho xong.

Hai nhà thơ trên đùa cợt với đời sống cát bụi, tình ái. Nguyễn Thế Hoàng Linh đùa cợt với triết lý nhân sinh. Lối đùa này ở TK XX hiếm thấy. Thơ lục bát của hai nhà thơ trên cũng đã đổi mới nhiều, vậy mà đến lượt Linh vẫn rất khác lạ.

5. Đồng Đức Bốn có nhiều bài thơ lục bát thành công được dư luận đánh giá cao ở cuối TK XX. Bài “Chăn trâu đốt lửa”:

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

Đầu TK XXI, bài “Đồng chiều” của Đỗ Vinh:

Đôi sừng đã chạm cổng làng

Chân còn bì bõm chưa sang khỏi chiều

Cái đuôi sau rốt vòng vèo

Còn vung vẩy nốt chút heo may đồng.

Lê Huy Quang lạ hơn:

Về đi. Thôi gió. Là đêm,

Hương hoa sữa. Những êm đềm thời gian

Về đi, thôi gió nồng nàn

Heo may gợn. Thoáng đầy tràn trong nhau.”

Bài của Đồng Đức Bốn từ đầu đến cuối là mạch kể đơn thuần, tập trung nội lực vào câu cuối.

Bài của Đỗ Vinh có sự hoán đổi lồng ghép thời gian, không gian, có bóng dáng một bức tranh lập thể. Bài của Lê Huy Quang là nhiều mảnh của nhiều bức tranh siêu thực, những mạch liên tưởng chặt khúc, vụn vỡ, tách rời và tất cả được quy tụ lại ở phần cuối “thoáng đầy tràn trong nhau”. Cả hai bài thấp thoáng yếu tố đồng hiện cấu trúc là thủ pháp khá phổ biến của thơ hậu hiện đại đầu thế kỷ XXI mà ở thời Đồng Đức Bốn cuối thế kỷ XX hiếm thấy.

6. Trường hợp khác cùng một tác giả, Nguyễn Thanh Mừng cuối TK XX có bài thơ nổi tiếng “Đám cưới Huyền Trân”:

Nghe đồn vua xứ Chà Bàn

Dâng miền Ô Lý rước nàng vu quy

Tôi đem rượu đến biên thùy

Hắt lên mây trắng biệt ly cả cười…

Thân không tấc đất cắm dùi

Biển sông thi phú mây trời phong sương

Cắn răng nhường bậc đế vương

Gươm cùn quẳng xuống vệ đường nhân duyên.

Thôi, nàng hãy tạm nguôi quên

Tôi, chàng trai Việt còn trên đời này

Quyết thu trăm họ về tay

Binh nhung ruổi chốn lưu đầy tìm nhau.

Đầu TK XXI, anh có bài “Bên sườn núi”:

Rằng từ sỏi đá sim mua

Mẹ tôi đã xếp nắng mưa thành làng

Củ gừng ngậm một đa mang

Vùi vào trăng khuyết trăng tàn mà cay.

Tôi cầm gió cộ sương gầy

Hỏi bao muối mặn vun đầy trăm năm

Giếng nguồn thành cả rượu tăm

Mặt người thương mến hóa rằm trong nhau.

Tôi nâng giọng nói nặng sâu

Tiếng thô tiếng mộc nên châu nên trầm

Ở nơi vắng cách nhân sâm

Sắn khoai đĩnh đạc tri âm với trời.

Bài “Đám cưới Huyền Trân”, thời gian, sự việc được xếp theo đơn tuyến, với ngữ pháp thông thường. Bài dưới “Bên sườn núi”, thời gian sự việc diễn biến đa tuyến, ngữ pháp biến ảo. Giữa hai câu đầu đã có sự gián cách, sau những chữ: “từ sỏi đá sim mua” lẽ ra phải vắt xuống ý dưới, nhưng không, bỏ lửng. “Mẹ tôi đã xếp nắng mưa thành làng”. Tương quan của câu sáu và câu tám ấy không ăn nhập gì với nhau? Chữ “từ” hóa ra thừa? Cặp câu sáu tám này biến thành đầu ngô mình sở? Chỗ này một thầy giáo khắt khe có thể bắt lỗi. Nhưng tĩnh tâm đọc lại, khoảng gián cách mỹ học mà tác giả cố tình tạo ra làm cho câu lục bát mênh mang lãng đãng. Khoảng cách đó giành để người đọc liên tưởng và mỗi người liên tưởng theo cách riêng của mình đặng mà gắn kết hai tương quan có sự tương đồng. Rồi tiếp theo vừa nói về mẹ, đã ngoặt sang “củ gừng ngậm một đa mang”

Đặc biệt bài thơ này có nhiều từ rất cũ: “đa mang, trăng khuyết trăng tàn, gừng cay muối mặn, trăm năm, rượu tăm, người thương mến, nên châu nên trầm, tri âm…”, đã vậy lại đặt trong thể lục bát truyền thống, nếu non tay sẽ thành véo von ca vè hoặc sến, bài thơ hỏng là cái chắc nhưng ở bài này chúng được Nguyễn Thanh Mừng đặt vào quy hoạch kiến trúc mới dưới tác động cộng hưởng của các yếu tố cách tân nên những từ cũ ấy được “hóa phép” trở thành mới mẻ. Bài thơ 12 câu, câu nào cũng từ khá đến hay.

Bài “Đám cưới Huyền Trân” cũng có nhiều từ cũ “rước nàng vu quy, biên thùy, biệt ly cả cười, tấc đất cắm dùi, thi phú, phong sương, đế vương, gươm cùn, nhân duyên, chàng trai, trăm họ, binh nhung, lưu đầy…” nhưng đặt ở tương quan cũ thì vẫn cũ nguyên.

Những từ ngữ trong khổ thơ vốn có mối liên hệ đa chiều, chúng vận động, chuyển hóa như những hạt nhân trong một trường liên tưởng. Ở đây, người đọc có điều kiện đồng sáng tạo với nhà thơ.

Thủ pháp trên ở TK XX hiếm có.

Thơ lục bát nhịp vần chặt chẽ, tưởng khó có cách tân gì đáng kể, vậy mà các nhà thơ cũng có nhiều sáng tạo làm mới thể thơ truyền thống này.

7. Mai Văn Phấn, trong những năm cuối TK XX, thơ anh dung dị, bài “Thay lời chim làm tổ”:

Vừa tỉnh dậy giữa vòm cây

Ta đem tiếng hót xuyên ngày vào đêm

Dòng sông giờ đã say mềm

Mới hay bờ cỏ ru êm còn ghì.

Một thời phờ phạc thiên di

Tìm trong bóng nước thấy gì nữa đâu

Mảng đêm đập cánh đi mau

Giọt sương trong mát trên đầu hư không

Lơ ngơ mình với hừng đông

Lặng nghe ngày rạng giữa lòng bồng bênh

Mau về tha cả rơm xanh

Mùa lên hơi ấm vây quanh vội vàng.

Cùng đề tài, đầu TK XXI, bài “Con chào mào”:

Con chào mào đốm trắng mũ đỏ

Hót trên cây cao chót vót

triu… uýt… huýt… tu hìu…

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi.

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng, khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo.

Trong vô tăm tích, tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi.

triu… uýt… huýt… tu hìu…

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.

Hai bài cùng đề tài, hai thời điểm khác nhau, bài trên tác giả sử dụng bút pháp truyền thống, tuy chữ dùng có gia công nghệ thuật khá công phu: “Ta đem tiếng hót xuyên ngày vào đêm/ Dòng sông giờ đã say mềm…mảng đêm đập cánh…” nhưng vẫn là mạch thơ đơn tuyến. Bài dưới lời thơ giản dị hơn, ít gia công nghệ thuật nhưng tâm thức rất lạ: “tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ, tôi ôm khung nắng khung gió…” vừa thực đấy thoắt đã ảo ngay. Rồi “nhành cây xanh hối hả đuổi theo” vừa tĩnh đấy thoắt đã động ngay. Lại: “trong vô tăm tích, tôi nghĩ”, tại sao không nghĩ trong thực tại mà nghĩ trong vô tăm tích? Vừa hiện thực thoắt đã siêu thực ngay. Và:“mổ những con sâu, trái cây chín đỏ, từng giọt nước thanh sạch của tôi…” tuy rất thực nhưng đều lãng đãng trong cái vùng “vô tăm tích” rất mông lung kia. Và thật bất ngờ, cuối bài thơ, chim không bay về nhưng tiếng hót nghe rất rõ! Âm thanh vang lên từ tâm thức chăng? Nếu bài trên trải ra như hình học phẳng thì bài dưới thu vào thành khối hình học không gian đa chiều; ở góc này hiện ra hình vuông, góc khác nhìn ra hình lục lăng, hay nhiều hình đa diện khác như nhìn qua thấu kính vạn hoa… Loại thơ này hiếm thấy ở thế kỷ trước.

8. Trường hợp Từ Quốc Hoài, cuối TK XX, bài “Cỏ mùa xuân”:

Sững sờ tháp cổ xanh rêu

lặng im Tháp đứng bên chiều đợi tôi

nụ cười đá tạc vỡ đôi

ngỡ còn phảng phất làn môi ấm mềm

eo lưng thon bước chân êm

mởn mơ bầu vú… như thèm được yêu!…

ngàn năm dậy dưới màu rêu

đâu thần linh với vương triều phế hưng?

Lao xao ngọn cỏ mùa xuân

dấu chân nào mới ngập ngừng qua đây

diều ai rộn rã trời mây

tháp xưa trẻ lại giữa ngày cỏ non.

Đầu TK XXI, bài “Thiên đường”:

Những đôi tình nhân chiếm đoạt nhau

họ tạo ra

bầu trời nguyệt thực

cũng có thể là nhật thực toàn phần

trong hơi thở cường tráng mùa xuân

họ trải qua mọi cảnh giới miền đất hứa

như Thiên thần

mê man hạnh phúc

trút bỏ mọi thứ

để tỏa hương da thịt

từ chối tất cả

để được nhận báu vật

tự do

con người sẽ mãi mãi cư ngụ cõi trần gian

nhưng biết cách

tạo ra Thiên Đường.

Hai bài đề tài gần nhau. Bài trước thi pháp truyền thống, hướng ngoại. Bài sau thi pháp cách tân, hướng nội, nhà thơ không dừng lại ở những hiện tượng bên ngoài của cái sự yêu mà đi sâu vào bản chất vấn đề. Dùng ngôn ngữ giản dị mà thơ không nhạt là rất khó, đây là thách thức vô cùng khắc nghiệt đối với các nhà thơ. Thi pháp cách tân khoáng đạt dễ diễn đạt ý tưởng độc đáo, đẩy tới tận cùng. Với tầm vóc này, bằng thi pháp cũ khó diễn đạt được hay nói đúng hơn là không thể được, phải có một hình thức thật mới mẻ tương xứng. Thi pháp và những thủ pháp nghệ thuật này ở Từ Quốc Hoài hồi cuối TK XX không có. Các nhà thơ khác cũng hiếm thấy.

9. Bài dưới đây của Thi Hoàng được viết khoảng thập niên 90 cuối TK XX:

Mùa thu an ủi

Như có cánh diều bay trong miệng

Cuối trời đất nặng hóa thành mây

Màu xanh thắt lại chừng đau điếng

Rồi sáng rồi trong nắng gió đầy.

Gió nọ lần mò trong áo quần

Gió kia vồn vã đã làm thân

Cát bụi thì thầm nơi đáy túi

Nước trong như cứa, đá như dần.

Nỗi đau lên khói mơ màng quá

Nhạt lại bừng lên, nắng ú òa

Tiếng ai như mạch nha quấn quyện

Cỏ đấy a và cây đấy a!

(Trích “Đom đóm và sao” 1997)

Bài dưới đây Thi Hoàng in báo Văn Nghệ ngày 12-6-2010, bài thơ dài in suốt hai phần ba trang báo. Xin trích một số đoạn:

X quang

Trong giấc mơ thấy ý tứ trong ruột gan rất là giả tạo

và con chữ nén trong tự điển mảnh như dao cạo

vừa gọt quả vừa túm lấy một chữ cho thơ và đứt tay

có máu bảo đảm cho thất bại

quăng mẻ lưới rất to thu vài ba chữ gày

chiều nay lại lòi ra một đứa háo danh như khát nước.

Cứ tưởng có tiền thì đờm rãi cũng thành tinh dịch

coi thường mồ hôi chỉ tôn sùng son phấn nước hoa thôi

sờ silicon phải có cảm xúc thịt da chứ nếu không là dốt

cảm xúc ơi, cảm xúc có sao không?

Cảm xúc hết hơi rồi!

không lẽ lại chế tạo một người mẹ khác

thay mẹ mình nằm trong đất nâu

ngay cả đất cũng toan làm đất giả

xin đổi trăm niềm vui lấy một nỗi u sầu.

Tiếng gà gáy thọc vào túi quần tìm tiền lẻ

tiền lẻ làm sao mua được bình minh

tôi mặc cả với chính tôi về phẩm cách

và tôi nhiều lần bị tôi coi khinh…

trường sinh học dạy làm người trong từng hơi thở

sau mỗi lần sung sướng toát mồ hôi

chẳng lẽ bao tinh túy thăng hoa vọt ra cạn kiệt

chỉ còn đây cặn bã ở ta à

ta lại hàng tuần không chịu tắm

lại đếm đi đếm lại tiền nhiều lần khi lĩnh lương

lại ngắm sếp mình vào những bảng danh giá trời ơi đất hỡi

lại xúi bẩy lưỡi nói những lời khôn lỏi

lại nhầm lẫn chính trị là triết học

thì còn biết đằng nào mà bảo ban trái tim.

rất thích cho chó liếm lên da

chốc nữa phải rửa tay cũng được

vâng, rửa tay dễ hơn rửa nhục

chó ngoan ơi! xin cảm ơn mày.

Tôi cũng từng được chia quỹ đen được phần sổ đỏ

góp bâng quơ để dây máu ăn phần

cũng đem nắng vàng phơi phóng chút vinh quang

đến tây đen cũng phải đỏ mặt

xin mang nỗi ngượng ngùng bón xuống đất

mong tinh thần vô cơ làm vật chất hữu cơ…

Bài thơ trước, cuối TK XX, tuy đã le lói sự chuyển đổi thi pháp “Màu xanh thắt lại chừng đau điếng”, nhà thơ nhìn màu xanh cuộc đời không phẳng lặng đẹp tươi mà quặn thắt nỗi niềm gì đó. Tức là cũng đã lật đi lật lại vấn đề, suy ngẫm, trăn trở. Nhưng chỉ đến thế thôi, câu sau đã trở về với sự yên ả thường ngày: “Rồi sáng rồi trong nắng gió đầy”. Một số câu khác trong bài cũng vẫn đầy đặn như thế. Hay trong nhiều bài khác, những câu thơ rất tài hoa:

“Trong ngực em có đôi chim bồ câu bị nhốt

Đi tìm trời xanh mà thả chúng ra”.

Thì vẫn ở trong “kênh” đó mà thôi. Có lẽ ông vẫn còn bận rộn với tâm trạng chung:

“Văn học làm triết học

Trên đầu ruồi tiểu liên”…

Nhưng đến bài “X quang” cuối thập niên đầu TK XXI thì khác hẳn. Riêng cái tít đã rất quyết liệt, nhà thơ đứng trước máy phóng xạ để soi rọi toàn bộ con người thật của mình. Và như thế là không giấu được gì cả, tất nhiên đây là lĩnh vực tinh thần, tư duy, cảm xúc, có thế sự, có nhân sinh, có công việc làm thơ thường nhật… Nhà thơ nhìn ra rất nhiều, rất nhiều cái không ổn, mổ xẻ phanh phui, khi xót xa khi đau đớn tủi nhục.

Sự quyết liệt này ở cuối TK XX hiếm thấy.

* * *

Xin nhắc lại, tôi chỉ so sánh để thấy cái sự khác, chứ không hề đụng đến cái sự hay ít, hay nhiều. Qua chín trường hợp so sánh trên đây, về thi pháp, bút pháp, sự khác nhau quá rõ. Sự khác mang yếu tố thời gian hợp với quy luật vận động của thơ ca và đều theo hướng tích cực. Thời điểm khác, thơ tất yếu khác, nhất là sang thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới. Nền thơ của chúng ta có sự khác này là điều rất đáng mừng. Chỉ sợ TK mới, mà bói không ra cái sự khác nào cả mới là tai họa. (Nhưng cái sự khác này không dễ được chấp nhận, xin xem phần sau bài viết này).

Cái sự khác là yếu tố cốt lõi đánh dấu sự phát triển, tiến hóa. Quy luật tự nhiên, xã hội đều thế cả.

Cái sự khác ấy là những yếu tố mới để bạn đọc có thể bỏ cho thơ cách tân Lá-phiếu-hy-vọng, được chăng?

III. ĐI TÌM PHƯƠNG PHÁP NGHỆ THUẬT MỚI & THI PHÁP CÁCH TÂN

Hệ mỹ học Trung Hoa cổ đại chiếm ngự văn đàn Việt hàng nghìn năm. Dẫu nước ta giành được độc lập từ thời Ngô Quyền năm 939 nhưng hệ mỹ học ấy còn kéo dài sự trì trệ bảo thủ nghìn năm sau cho đến cuối thế kỷ XIX mới được thay thế bằng hệ mỹ học Châu Âu mới mẻ tiến bộ hơn.

Năm 1945, nước ta giành độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp nhưng thi pháp thơ mới từ thời ấy còn kéo dài mãi cho đến hôm nay khi mà đất nước đã thống nhất, đổi mới và hội nhập toàn cầu. Tất nhiên không đánh đồng thể chế và văn hóa, nghệ thuật, nhưng cái gì đã bị thời đại bỏ xa rồi thì mình cũng nên biết và ứng xử thích hợp.

Đây là điều bức xúc của những người làm thơ và yêu thơ. Thời đại mới phải có thi pháp mới chứ không thể xài mãi thi pháp của ông tây bà đầm du nhập vào từ hàng trăm năm trước mà “bản quốc” người ta cũng đã bỏ đi từ lâu! Thử mở các trang thơ hôm nay xem, rất nhiều bài thi pháp bút pháp so với “Thi nhân Việt Nam” 1932-1941 vẫn gần như “chị em sinh đôi”.

Có người nói rằng thơ cách tân là lai căng, thơ truyền thống hiện nay mới là dân tộc. Nhầm quá. Thơ truyền thống hiện nay trừ lục bát và vài ba thể thơ thuần Việt, còn phổ biến từ những nguồn thơ cổ đại Trung Hoa và thơ Pháp từ thế kỷ XVII, XVIII du nhập vào đã được Việt hóa. Thơ cách tân cũng từ ngọn nguồn ấy nhưng đã bay vượt sang một chân trời mới rất khác lạ.

Thơ cách tân khi tiếp cận tới hoàn mỹ thì hài hòa cả hai yếu tố dân tộc và hiện đại. Hai yếu tố này luôn tương hỗ tôn vinh nhau lên. Câu thơ cách tân thời cuối phong trào thơ mới của Nguyễn Xuân Sanh nửa đầu thế kỷ XX:

“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”

Và của Miên Di đầu thế kỷ XXI:

“Đẽo lương tâm để vừa với chỗ ngồi”

Câu trên, đĩa quả thờ cúng Tổ tiên cổ truyền đẹp một cách mênh mang ảo diệu và câu dưới, cái sự “đẽo” rất dân dã, xưa “đẽo cày”, “đẽo guốc”… giờ “đẽo lương tâm”, rất dân tộc và hiện đại. Câu thơ của Miên Di thẳng tay tái nạm mấy ông bà tham nhũng đã bị lộ và chưa bị lộ!

* * *

Nhìn chung, xài quen cái cũ lâu quá rồi, đổi sang cái mới thường rất khó. Trong lĩnh vực thơ lại càng khó.

Lại nhớ trường hợp ra đời của tập “Lá cỏ” (Leaves of Grass) năm 1855, khi ấy Walt Whitman 37 tuổi, tập thơ có 12 bài và một bài mở đầu, ông tự bỏ tiền túi ra in. Khi tặng bạn bè, ông bị nhiều người chê bai la ó. Có trường hợp gửi tặng sách qua bưu điện, còn bị bưu điện gửi trả: “không đáng gọi là thơ, tặng bạn thế là khinh bạn”.

“Ai đó cho rằng sinh ra trên đời là niềm hạnh phúc?

Tôi nói ngay với họ rằng chết cũng là hạnh phúc.

Tôi chết cùng với người đang chết và sinh ra cùng đứa trẻ sơ sinh…

Tôi ký thác tôi cho bùn đất để tái sinh từ ngọn cỏ tôi yêu

Bạn muốn gặp lại tôi, hãy tìm tôi dưới đế giày của bạn“.

Tập thơ “Lá cỏ” phá vỡ khuôn khổ vần luật của thơ truyền thống Mỹ, nhưng cũng phải 100 năm sau sự phản đối Whitman mới hết. Cuộc cách mạng thơ ca ấy đã cho ra đời thể thơ tự do mới. Walt Whitman luôn có thái độ dứt khoát: “Bất cứ khi nào bạn thấy mình đứng về phía đám đông, đã đến lúc để dừng bước và tự ngẫm lại mình” (Epoch Inspired – Vanvn.net 17-03-2015)

Ở Việt Nam, “thơ khó” đã được Xuân Diệu luận giải trên báo “Ngày Nay” số 145, 14-1-1939 và tiếp theo là “Tính cách An Nam trong văn chương” số 146, 28-1-1939, “Mở rộng văn chương” số 148, 4-2-1939, “Thơ Huy Cận” số 151, 4-3-1939, “Công của thi sĩ Tản Đà” số 166, 17-6-1939 (theo tư liệu của Phạm Xuân Nguyên). Ông giới thiệu và bênh vực “thơ khó” chủ yếu của hai nhà thơ pháp Arthur – Rimbaud (1854 – 1891) và Mallarme – Nadar (1842 – 1898): “chúng ta không hiểu, nhưng khi hiểu được câu nào, thì câu ấy lồ lộ một vẻ đẹp nguy nga”.  “Thơ khó” quả là khó thật: khi “thơ khó” xuất hiện ở Việt Nam, chính Xuân Diệu lại là người công kích, ngăn chặn. Ấy là đối với “Thơ điên” của Hàn Mặc Tử, “Tinh huyết” của Bích Khê, “Điêu tàn” của Chế Lan Viên, “Mê hồn ca” của Đinh Hùng, “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ, “Buồn xưa”, “Hồn ngàn mùa”, “Bình tàn thu” của Nguyễn Xuân Sanh, “Giọt sương hoa” của Phạm Văn Hạnh… Những tập thơ này ảnh hưởng chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng Châu Âu, khá lạ lùng với độc giả đương thời. Và lúc này đây “Xuân Diệu quả đã đuối sức trong chuyến đập cánh về chân trời của sự cách tân, làm mới thơ ca”. (Nguyễn Thanh Tâm – Văn nghệ trẻ 26-2-2012). Sau đó, năm 1949, trong cuộc thảo luận ở Việt Bắc về thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu cũng phê phán nặng nề, và như vậy ông đã góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn một cuộc cách mạng thơ ca lúc bấy giờ.

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh cũng chỉ tiếp nhận sự đổi mới và cách tân thơ ở mức độ rất chừng mực. Đối với những trường hợp thật mới mẻ và khó, ông cũng dị ứng (việc tuyển tác giả tác phẩm vào “Thi nhân Việt Nam” thể hiện rõ điều này).

Ấy là hai ngôi sao sáng của bầu trời thơ mới thế kỷ trước còn như vậy huống hồ ngày nay.

Do vậy, chúng ta hoan nghênh sự dũng cảm của các nhà thơ cách tân, dẫu thành quả còn khiêm tốn (và nhiều khi còn bị ăn đòn).

* * *

Cuối TK XX, khi hệ thống lý luận văn học đang thịnh hành và được tôn thờ như vật tổ tối linh bỗng chốc sụp đổ và rơi vào khủng hoảng. Các nhà văn hoang mang ngơ ngác, chợt nhớ ra hình như các cụ nhà mình có những đúc kết về nghề văn hay lắm, bèn phủi bụi lục tìm trong tủ sách của nhà thì gặp lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ. Ôi, bao năm đi theo cái bóng hồng ảo ảnh tận đâu đâu, giờ quay về, nhìn lên chỗ nhiễu điều phủ lấy giá gương thấy ngay điều căn cốt: Chân – Thiện – Mỹ. Lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ như bình rượu cổ chưng cất từ tinh hoa văn hiến Việt, có sức sống vượt thời gian, là chất bổ dưỡng tinh thần, chất men nghệ thuật chắp cánh thăng hoa cho các thế hệ văn nhân. Thế rồi họ lại ngó sang các hệ thống lý luận phương Tây, thật lạ lùng, nội hàm Chân – Thiện – Mỹ với nội hàm các lý luận phương Tây tiến bộ có khoảng cách không xa là mấy, lại như thấp thoáng đồng ảnh đồng hiện trong nhau, nếu khéo kết hợp lại thì rất đẹp, cũng tựa như thị trường Việt Nam vừa tham gia vào WTO ấy! Ôi thời đại đổi mới hội nhập mới vui làm sao và họ nhận thấy:

Kết tinh chân thiện mỹ hài hòa tính dân tộchiện đại là phương pháp nghệ thuật mới của thế kỷ XXI.

Đây chính là nguồn sáng ấm áp là chỗ dựa tin cậy, nhà văn yên tâm không còn phải chung chiêng như trước, không biết lựa chọn phương pháp nghệ thuật nào cho phải nhẽ.

Riêng lĩnh vực thơ, sự chuyển động rầm rộ của thi đàn Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI, ta thấy có nhiều nét tương đồng với đầu thế kỷ XX. Tương đồng ở sự chuyển từ cũ sang mới; từ quen sang lạ, nói gọn hơn: sự lột xác về thi pháp nghệ thuật…

Đầu thế kỷ XX: từ thi pháp thơ cũ, ảnh hưởng từ Trung Hoa cái tôi phải giấu kín sang thi pháp thơ mới, ảnh hưởng từ Châu Âu, cái tôi được mặc sức phô bày.

Đầu thế kỷ XXI: từ thi pháp thơ mới nghiêng về cảm xúc và hào sảng sử thi sang thi pháp cách tân nghiêng về nghiệm suy lẽ sống, nhân sinh; không chỉ phản ánh, mà còn phản biện; không chỉ động viên cổ vũ mà còn dự báo tương lai; không chỉ nhận thức mà còn thức tỉnh lương tri con người.

(Còn tiếp)

Nguyễn Vũ Tiềm

(Nguồn nhavantphcm.com.vn)

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder