
Tập thơ “Nắng sông Văn”của những người làm thơ ở khu vực 3 xã Đường 10 huyện Tiên Lãng vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn cho ra mắt bạn đọc, như một lời mời đến với một miền quê trù phú, giàu truyền thống lịch sử và văn hóa phía tây huyện Tiên Lãng, với những đặc sản nông nghiệp nổi tiếng khắp vùng châu thổ sông Hồng, với cảnh sắc nông thôn mới khá trù phú, được bao quanh bốn bề sông nước và có con đường Quốc lộ số 10 nhộn nhịp chạy qua.
Câu lạc bộ thơ ca Đường 10 Tiên Lãng hiện có hơn 30 hội viên ham say sáng tác và biểu diễn thơ ca. Chủ nhiệm Lê Thị Hoài Phú là một cây bút thơ tiêu biểu của huyện Tiên Lãng. Chị đã có nhiều bài thơ đăng trên sách báo gần hai chục năm nay. Thơ chị giàu hồi ức về một thời cả nước cùng ra trận. Chị làm thơ trước hết để trải lòng mình với sự đổi mới của quê hương, đất nước. Hình ảnh chợ quê trong thơ chị thân thiết vô chừng:
“Rộn ràng rặt những hàng quê
Ơ sao người phố vẫn mê bao điều
Lửng lơ bán gió cho diều
Trao thương vào nhớ, đổi chiều sang mai”.
Các tác giả Bùi Tiến Cự, Mai xuân Vĩnh, Nguyễn Khắc Tiệp bằng nhiệt huyết của tuổi về chiều đã viết lên tiếng lòng thành thực ngợi ca quê nhà đang có nhiều nét chuyển biến mạnh mẽ về phát triển kinh tế, khởi sắc bộ mặt nông thôn, có những hoạt động văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Văn Bào mong được “Đồng hành cùng bạn thơ / Những sớm chiều náo nức / Sẽ viết hồng giấc mơ”. Nguyễn Thị Cành, Nguyễn Hồng Huệ, Phạm Thị Kim Liên bằng câu chữ chân thành đã bày tỏ niềm tự hào về những năm tháng qua gắn với nghề dạy chữ, rèn người. Phạm Quang Giảng ghi lại cảm xúc chân thực khi tới thăm một di tích kháng chiến.
Thật có lí khi trong tập thơ xuất hiện khá nhiều bài thơ dành tặng chị em, bởi Câu lạc bộ có nhiều hội viên nữ không chỉ nhiệt tình tham gia ca múa mà còn viết lên những vần thơ gợi được đồng cảm của bạn đọc, như Phạm Thị Huệ, Đào Thị Tạo, Trần Hồng Vít. Chỉ thoáng gợn sắc thiên nhiên cũng đủ cho Vũ Thị Nết, Hoàng Thị Minh Nguyệt mượn câu chữ để giãi bày cảm xúc trước tình đất, tình người. Trần Thị Thiết có những dòng thơ xúc động khi viết về người thân vừa xa khuất. , Lưu Thị Bắc vẫn nhói lòng chạnh nhớ tới mối tình xưa chia ngả. Nguyễn Thị Chót có những bài thơ giàu xúc cảm, sử dụng từ ngữ khá trau chuốt, nhuần nhuyễn.. Chị mượn cảnh mưa xuân để nói hộ lòng mình:
“Giấu gì trong mắt tháng ba
Nhập nhòa mưa lạnh chỉ là như sương
Lúa xuân đợi sấm bên đường
Chờ cơn mưa hạ thầm thương gọi hè”.
Tập thơ này đã quy tụ 76 bài thơ của 22 hội viên trong Câu lạc bộ, không kể
16 bài thơ của 8 bạn thơ, bao gồm nhiều thể loại thơ lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn, thơ Đường luật, thơ tự do… đề cập đến nhiều đề tài, nhiều khía cạnh đời sống khác nhau. Những bài thơ lục bát của Trương Thị Hằng, Trần Thị Nụ, Phạm Thị Thìn ngỡ mộc mạc, có chỗ hơi nôm na, mà vẫn thắm đượm hồn quê, thuần phác và đã phần nào ánh lên vẻ lấp lánh của ngôn từ. Thể thơ Đường luật không dễ viết, nhưng vẫn có thể trân trọng những bài thơ của Hoàng Lê và một số cây bút khác mới thử sức. Tác giả Hoàng Đựng không sa đà vào lối chơi chữ nghĩa mà để mỗi dòng thơ tự lóe sáng bởi nét đẹp của cảnh, của tình. Mùa xuân quê hương được anh gợi tả thật đẹp đẽ, gần gũi và đáng yêu:
“Đào mai sắc thắm khoe mùi nhụy
Bưởi quất thơm lừng mặc áo hoa
Mướt mát đường quê làn khói tỏa
Tưng bừng lễ hội điệu chèo xa”.
Những bài thơ như thế là sự biểu hiện cảm xúc hài hòa, xoắn quyện giữa nội tâm chiêm nghiệm và sự hướng ngoại phản ánh của từng tác giả. Những vần thơ ngỡ êm xanh, tươi mát, như thể những giọt phù sa ngọt lành, ánh lên nơi bờ xa bãi rộng.
Vẫn biết thơ còn cần sự phá cách, đột biến, sáng tạo ở người cầm bút, nhưng có thể vui lòng với những nỗi niềm chân thành, những câu chữ thánh thiện, có khi còn chưa nhuần nhụy, chưa gãy gọn, thậm chí có chỗ thô ráp, sơ giản, trong tập thơ này và càng mừng hơn bởi đó ít nhiều có giá trị nhân văn trước đời sống, xã hội, con người hôm nay.