
Sau 1986, văn chương Việt thực sự được cởi trói, khước từ những đại tự sự để đến với những góc khuất của thân phận con người, những đối thoại nhân sinh, những giải thiêng, khai phóng, những nhìn nhận của con người cá nhân trong dòng chảy lịch sử, thời cuộc… Thơ nữ Việt nói chung và thơ nữ đất Cảng nói riêng không nằm ngoài quy luật vận động ấy. Từ sau 1986 đến nay, thơ nữ Hải Phòng thực sự là một mạch chảy độc đáo, có nhiều đóng góp cho văn học Hải Phòng cũng như dòng chảy thơ nữ Việt đương đại. Những đặc thù trong địa văn hóa, sự kế thừa truyền thống và phát huy những tinh hoa của miền đất văn chương Hải Phòng, sự xuất hiện của các thế hệ tài năng, các cá tính thơ nữ riêng biệt đã làm nên diện mạo thơ nữ Hải Phòng sau 1986 đến nay
Sự tiếp nối bền bỉ của các thế hệ thơ nữ Hải Phòng
Trước 1975, thơ nữ Hải Phòng rất ít gương mặt trong trường thơ chống Mỹ. Nguyễn Thị Hoài Thanh được biết đến trong giai đoạn này nhưng chưa thực sự gây được chú ý và sự thăng hoa trong tác phẩm của bà lại là sau Đổi mới. Những năm sau đổi mới đến suốt những năm của thập niên 90, sự xuất hiện của Nguyễn Thị Hoài Thanh, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Tảo,Vũ Thị Huyền, Vũ Thúy Hồng tạo nên những gương mặt vừa đặc sắc vừa đạt nhiều thành công của thơ nữ đất Cảng. Giải thưởng của Hội nhà văn VN năm 1988 cho tập thơ Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, giải nhất thơ Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền phong trao cho chùm thơ của Vũ Thị Huyền, giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Thúy Hồng chính là những ghi nhận cho thành công của họ. Những năm thập niên 2000 đến nay, sự xuất hiện của thơ Phạm Vân Anh, Đỗ Khánh Phương, Nguyễn Thị Thúy Ngoan, Đoàn Thị Luật, Bùi Thu Hằng, Trần Thị Lưu Ly, Thy Nguyên, Hoàng Minh Luyện, Phương Mâu, Nguyễn Thị Loan, Trần Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Thùy Linh, Hải Quỳnh, Trần Thị Bảo Thư, Lê Thị Tâm Chung, Lê Phương Liên, Nguyễn Thị Kim Lan, Trần Thị Thúy Hoàn, Ngân Lê, Lê Nhi… cũng gây được chú ý, bổ sung cho sự đa dạng trong mỹ cảm và phong cách sáng tác của thơ nữ Hải Phòng. Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam các năm 2005 trao cho Phạm Vân Anh, năm 2008 là Nguyễn Thị Thúy Ngoan, giải nhì cuộc thi thơ trên Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2015-2016 của Nguyễn Thị Thùy Linh, giải nhì cuộc thi thơ năm 2017-2018 của tạp chí Nhà văn và tác phẩm được trao cho Trần Thị Lưu Ly …chính là sự nối dài cho những thành công của thơ nữ Hải Phòng trên bản đồ thơ Việt.
Nhưng hơn cả những giải thưởng ấy, vẻ đẹp thật sự của thơ nữ đất Cảng là sự lưu dấu trong lòng bạn đọc những mỹ cảm, những câu thơ lay đọng trong tâm thức và còn lại với thời gian. Ở đó mỗi nhà thơ nữ được đối thoại, độc thoại với chính mình, với thế giới, đặt ra những vấn đề về nhân sinh, những trăn trở thường hằng của con người. Chỉ khi cất lên từ bản thể, từ tiếng nói thẳm sâu của thiên tính nữ, từ tâm hồn và tài năng của họ, thơ nữ Hải Phòng mới thật sự vượt thoát và ghi dấu ấn. Xin được điểm lại những dấu ấn trong mỹ cảm của thơ nữ Hải Phòng suốt một chặng dài sau Đổi mới đến nay:
Tiếng nói nữ quyền cùng nỗi niềm thân phận của người đàn bà trong thơ hay là vẻ đẹp của thiên tính nữ
Năm 1988, khi Dư Thị Hoàn xuất hiện trên văn đàn với tập thơ Lối nhỏ (xuất bản do Hội văn nghệ Hải Phòng ấn hành) thì thơ bà đã trở thành một hiện tượng độc đáo. Tập thơ ngay lập tức được trao Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm ấy không chỉ bởi một tiếng thơ nữ mới mẻ, diễn ngôn lạ mà thực sự là tiếng nói nữ quyền sắc sảo, gây được chú ý. Khác với cái duyên dáng trữ tình, cái đằm thắm ý nhị của lứa các nhà thơ nữ thời chống Mỹ như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ…thơ Dư Thị Hoàn xác lập tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ. Người nữ không còn chỉ biết Hướng về anh một phương mà biết đối mặt với sự Tan vỡ của tình yêu, hạnh phúc, chối từ và cự tuyệt yêu khi Sau giây phút êm đềm trên ghế đá/Anh quên không cài khuy áo ngực cho em. Nữ sĩ Vi Thùy Linh, một tác giả nữ quê ngoại Hải Phòng, trong các tập thơ Linh, Khát, Đồng tử, Phim đôi-tình tự chậm đều thể hiện tiếng nói dữ dội, mạnh mẽ của người nữ cả về bản thể, nhục thể, sống tận cùng với khao khát của mình. Các tập thơ Tôi chào tôi (2004), Mùa tình (2006) của Phạm Vân Anh cũng mang đậm dấu ấn của một thiếu nữ nhận ra con đường đi tới và chào bản ngã của mình.
Bên cạnh tiếng nói nữ quyền luận với sự cất tiếng của bản thể, giải phóng người nữ khỏi những ẩn ức, những tập tục, cam phận thì trong thơ nữ Hải Phòng, nỗi buồn, nỗi đau thân phận người đàn bà cũng tràn ngập. Còn gì tinh tế và đằm sâu hơn khi thơ của các tác giả nữ cất tiếng về chính thân phận, kiếp đàn bà nhiều đắng đót, xót đau. Cất tiếng nói nữ quyền đòi giải phóng người nữ khỏi sự kìm tỏa của chế độ gia trưởng thì chính Dư Thị Hoàn cũng không tránh được tiếng thở dài thõng thượt cho chính thân phận người đàn bà trong bài Đi lễ chùa: Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/ Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ/Người thứ nhất thở dài:/- Tội nghiệp nhất người đàn bà không chồng!/Người thứ hai chép miệng:/- Vô phúc nhất người đàn bà không con! Người thứ ba cười buông:/- Bất hạnh nhất người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng./Người thứ tư điềm đạm:/- Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con!/Người thứ năm:/- Mô Phật /Lão xà ích giật dây cương/ Roi quất/ Tung bụi đường. Con người mong cầu sự thanh thản khi tìm đến cõi Phật nhưng cả năm người đàn bà trên chuyến xe ngựa với những vòng quay luân hồi của số phận đều không thoát được những nhức nhối, buồn thương của bể khổ. Những rủi may họa phúc của đời người thật vô thường, không ai tránh được. Bài thơ đặt ra những câu hỏi về nhân sinh, định mệnh.
Nữ sĩ Đoàn Thị Tảo, một đời thơ Tình riêng bỏ chợ/Tình người đa đoan qua các tập thơ của mình đã hát những điệu lí lơi về thân phận đàn bà chìm nổi, đã cõng cô đơn tận cùng của mình trong Đường nhân gian: “Tôi cô đơn nhất hành tinh/ Thế gian thừa đúng một mình tôi thôi/ Ước gì cũng có một người/Cũng cô đơn cũng ngậm ngùi giống tôi”/Cái buồn đem xẻ làm đôi/ Nửa cho bên ấy, nửa tôi để dành”. Chỉ chút lỡ thôi mà người đàn bà lỡ làng gặm nhấm những chua cay của thân phận: Mải chơi để lỡ chuyến đò/Ngẩn ngơ trách bến, oán bờ giận sông/Cái duyên giá những bao đồng/Bán đi thì tiếc cho không ngậm ngùi/Dùng dằng cau héo trầu hôi/Chợ trưa quán vắng trách người dửng dưng. Đoàn Thị Tảo đã kể chuyện đời mình bằng thơ thật tinh tế, tự nhiên, hồn hậu và bao dung.
Những lỡ làng, dở dang ấy đôi khi không còn là số kiếp mà còn là một chọn lựa đầy xác quyết, người nữ trong thơ bước qua những dị nghị của đời. Nếu nhân gian mặc định Chòng chành như nón không quai với sự thương cảm thì nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Ngoan lại cả quyết: Thà rằng đội nón không quai/ Còn hơn chằng buộc ngắn dài vấn vương. Tác giả Thy Nguyên suốt hành trình thơ mình vẽ lên khuôn mặt Đàn bà cũ đi qua những cả tin, lầm lạc để rồi đầy cương nghị: Người đàn bà bện tóc sau chiếc rương/Vai chạm khắc lớp bê tông mỏng dính/Đi qua cánh đồng dị nghị sắc nhọn/Nhặt mấy mươi mặt người dị hợm cợt đùa (Đàn bà cũ, tập thơ Người dưng, NXB Hội nhà văn năm 2019).
Nỗi tiếc thương thời thiếu nữ, thời con gái đẹp đẽ cũng phảng phất trong thơ nữ Hải Phòng. Nhà thơ Vũ Thị Huyền hoài tiếc thời con gái đi qua trong những câu thơ da diết, thoảng chất đồng dao trong trẻo: Bao nhiêu bầy con nít/ Đã tình bằng sang sông/ Bao nhiêu thời thiếu nữ/Khốp ngựa ô theo chồng…Xanh ngàn năm biển cả/Người ơi người chẳng về/Ngựa ô rơi nước mắt/ Thành cỏ vàng chân đê (Lỡ thì). Xuất hiện trên thi đàn sau Vũ Thị Huyền 15 năm nhưng Lê Phương Liên với nỗi hoài vọng trong kí ức về một thời con gái vẫn còn nồng nàn như thế nhưng ở một diễn ngôn khác: Nhà anh đầu thôn, em cuối thôn nhưng cách nhau một vườn cải đắng/heo may chôn lặng thinh nơi ngã ba làng/anh đi…xanh áo lính/em theo chồng ngày trăng nạ dòng/mưa thu lạc vườn khế héo/ Giếng làng sen tàn cánh lụa/heo may thêu nỗi nhớ mùa (Heo may nhớ, tập thơ Độc thoại sen, NXB Hội nhà văn, 2019)
Vẻ đẹp trong thiên tính nữ của thơ họ còn lấp lánh ở những trang thơ viết về hạnh phúc, về ngôi nhà, tình cảm gia đình, tình mẫu tử thiêng liêng. Bùi Thu Hằng ngậm ngùi khi viết về hạnh phúc: Người ta mua hoa tặng nhau/
Còn tôi mua tặng nỗi đau vô hình. Những trăn trở về ngôi nhà, hạnh phúc không yên ở Ngôi nhà bình yên trong mắt bão của Vũ Thúy Hồng, ở Không trăng năm 2000 của Trần Thị Lưu Ly đầy suy cảm: Thế giới của đàn bà là ngôi nhà/ Thế giới của đàn ông là thế giới/…Tìm gì ơi phù vân những nẻo vợi xa/Tình yêu đừng như tiếng thở dài quạnh quẽ/ Đêm cần trăng và chiếc đinh tường nhà cũng muốn nở hoa. Ngôi nhà với Nguyễn Thị Kim Lan vừa là nơi trở về, vừa để ôm vào lòng những gì thân thuộc sau những nhát sợ và trượt ngã: Tôi hối hả mở căn nhà/ khi trở về từ nửa vòng quay xổ số/ mang theo trĩu vai háo hức cùng nhát sợ/ nhiều lần buốt ngực/những bước thấp cao (Trở về) Hay Thy Nguyên dành cả một trường ca để viết về mẹ. Đời đá của chị dung dị mà nặng sâu thân phận của mẹ, của chị em mình, đi qua những bão giông của số phận. Những trang thơ của Trần Ngọc Mỹ cũng trở nên sâu thẳm hơn bên cạnh sự trong trẻo vốn có của chị, khi viết về người cha đã khuất, khi đối thoại với con. Và Nguyễn Thị Thùy Linh ru hình hài thơ dại bay đi của La La bé bỏng trong sự run rẩy của linh giác: Căn phòng khum lại thành nôi/ Những bà mụ tóc bạc bình yên đưa đẩy/ Chiếc giường cũ rung rinh, mẹ cũng rung rinh/ Ánh trăng bạc sôi trên chén thuốc (La La bé bỏng)
Bức vẽ thành phố biển và niềm hoài nhớ cố hương đằm sâu, dung dị
Vượt lên những sáo mòn khi viết về thành phố Cảng với những mặc định như hoa phượng, sóng gió, đảo, cảng biển với những chuyến tàu chở đi muôn phương…, mỗi tác giả nữ có một hình dung về thành phố của mình thật đằm sâu, gắn với kí ức tuổi thơ và những trải nghiệm đời sống của mình. Điều này khu biệt bức vẽ về Hải Phòng so với thơ của các nhà thơ nam. Nếu Thi Hoàng, Mai Văn Phấn vẽ phố biển từ những suy tưởng mang nặng tính triết lí thì thơ của các tác giả nữ lại nghiêng về cảm thức, bàng bạc nỗi buồn, niềm hoài nhớ. Trong Tôi ở Hải Phòng, thành phố biển với Nguyễn Thị Hoài Thanh là kí ức chất chứa: Tôi ở Hải Phòng/Trong lòng những bông hoa dại ven đê/ Dây lạc tiên tràn lan như nỗi nhớ/ Trong nắng đồi Kỳ Sơn mùa hạ/ Trong hương hoa Hạ Lũng vườn xưa/ Trong tiếng xe bò lọc cọc ngoại ô/ Trong con nước triều lên sông Lấp/ Tôi ở Hải Phòng/ Trong cánh buồm nâu không địa chỉ/ Ai gửi thư cho những cánh buồm hãy mượn gió đưa tin/ Sông Cấm ơi/ Sông như người bạn mới quen/ Thân thiết thế mà sao không hiểu được/ Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước/ Sông với tôi với bóng là ba. Còn với nhà thơ Trần Thị Lưu Ly, chị hình dung bức sơn dầu về thành phố biển kềnh càng, lầm lũi cũng không thể thiếu bóng dáng của những nghệ sĩ nghèo như trong bài thơ Người kéo đàn rong bên sông Tam Bạc: Một Hải Phòng kềnh càng mang thai sinh thành Tam bạc phố/ Người kéo đàn rong bìu díu khúc sông này. Với Bùi Thị Thu Hằng, thành phố biển ấy Lặng lẽ cánh buồm em đầy nữ tính. Nữ sĩ Khánh Phương sống xa Hải Phòng từ tuổi xanh, luôn mang nặng trăn trở về một Thành phố đại dương như tên tập thơ của chị với những mường tượng: Lửa rực hồng dưới biển sâu/Tôi vươn mình/Tóc xanh dài trong nước…Trần Ngọc Mỹ lại mang những suy tư man mác trước những đổi khác của phố thị: Tìm đâu một chốn rong chơi/ bên này sông, bên kia tòa nhà mọc lên vun vút/ tội nghiệp bước chân hẫng hụt/ lạc lẫm giữa dòng người (Lúc này)
Bên cạnh không gian phố thị, niềm hoài nhớ quê hương, bóng dáng những làng quê in đậm trên những trang thơ của họ. Không gian phố thị càng thôi thúc họ tìm trong kí ức nỗi nhớ làng thân thuộc. Sống ở phố thị nhưng đi về trong thơ Vũ Thị Huyền là niềm hoài nhớ quê xưa bàng bạc với những hoa cải ngồng trong mưa, bún lá, nón thúng quai thao, con rạm nâu chết vì ức gạch, hạt cườm, nong nia…Thoảng nghe Hương cau ở phố, Nguyễn Thị Thúy Ngoan giật mình nhớ quê xưa: Hoa cau không phải bùa mê/Phố đông mà vẫn nhớ quê cồn cào… Mỗi lần Về lại bến Hàn, Đoàn Thị Luật lại thổn thức nỗi niềm cảnh cũ, người xưa: Vẫn xanh bãi mía nương dâu/Người đi có nhớ những câu hẹn hò…Trần Thị Bảo Thư nhớ tiếng vùng miền ông bà để lại trên quê xưa tháng sáu: Em ơi/ tháng Sáu trăng soi bóng vịt chạy đồng/ đất lề quê thói/ tiếng vùng miền ông bà để lại/ xào xạc tre làng/ ai gọi hồn ta/ về đi em thăm lại bến phà/ gió cả cuộc đời, gió hằn bờ đá/ ăn hạt lúa vẫn nâng niu rơm rạ/ tháng Sáu chờ em vời vợi trắng cò. (Tháng Sáu)
Những tìm tòi đổi mới trong thi tứ, ngôn từ, bút pháp, thể loại
Sau này có viết thơ tự do nhưng làm nên cái tên Vũ Thị Huyền, Nguyễn Thị Thúy Ngoan vẫn là những câu thơ năm sáu chữ, lục bát trong trẻo. Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Tảo, Trần Thị Lưu Ly, Trần Thị Bảo Thư, Lê Phương Liên, Thy Nguyên, Trần Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim Lan thì cách tân ngay từ khi mới xuất hiện với thể thơ tự do, phóng khoáng giúp biểu đạt những ý nghĩ, suy tưởng chợt đến.
Sự khác biệt trong bút pháp cũng mang lại sự đa dạng cho thơ nữ Hải Phòng. Những tìm tòi, khai thác thơ mang vẻ đẹp văn hóa dân gian chính là hướng đi của Đoàn Thị Tảo, Vũ Thị Huyền, Nguyễn Thị Thúy Ngoan, Lê Phương Liên. Trần Thị Lưu Ly lại tiệm cận thơ gần đến những triết luận. Phạm Vân Anh đưa thơ từ bản thể, những ẩn ức cá nhân để đến với khuynh hướng sử thi. Dư Thị Hoàn lại chủ trương thơ nên càng xa với sự thật thì mới mê dụ. Vốn ngoại ngữ tốt, khả năng tiếp cận những khuynh hướng mới, đa dạng giúp thơ nữ trẻ của Hải Phòng hiện nay có nhiều khác biệt so với thế hệ trước. Ngay trong thơ nữ của các tác giả trẻ cũng có nhiều khác biệt. Nếu thơ Thy Nguyên chất chứa những ám ảnh hiện thực đời sống nếu Trần Ngọc Mỹ, Lê Nhi thiên về sự trong trẻo, buồn man mác những suy tư đời thường thì Nguyễn Thị Thùy Linh lại biến ảo với những giọt trôi lăn của ngôn từ, thi ảnh. Lê Phương Liên, Nguyễn Thị Kim Lan tuy tuổi không còn trẻ, mới xuất hiện vài năm gần đây nhưng liên tục có những đổi mới, thể nghiệm xô lệch cấu trúc thơ…
Không dừng ở viết những bài thơ lẻ, họ còn tìm đến trường ca, một thể loại đòi hỏi sự trường sức trong mạch nghĩ, mạch cảm. Trường ca Sa mộc (2016) của Phạm Vân Anh và hai trường ca Đời đá (2018), Gửi (2021)của Thy Nguyên là minh chứng cho sự trường sức, sự mở rộng phạm vi đề tài, thể loại của các chị.
Mảng thơ viết về thiếu nhi cũng chính là khúc rẽ làm mới mình, tạo nên thành công của Trần Ngọc Mỹ (tập thơ Ban mai của bé, 2016), Bùi Thị Thu Hằng (tập Sinh nhật gió, 2021)
&
Bên cạnh những thành công đã được khẳng định, cũng không tránh được sự quen nhàm trong lối viết. Điều này buộc các nhà thơ nữ phải biết tìm tòi, vượt thoát, không dẫm lại bóng mình, liên tục đổi mới. Nhưng đó không còn là câu chuyện của thơ nữ mà là vấn đề đặt ra chung với văn chương nghệ thuật. Chỉ biết rằng sự bền bỉ, nỗ lực vượt qua biết bao giông bão của số phận để tự nguyện, lặng lẽ gắn đời mình cho thơ, góp phần làm nên một diện mạo cho thơ đất Cảng của họ đã là điều rất đáng trân trọng
Hải Phòng, tháng 10/2020
L.K.P