
– Nhưng trốn đi đâu, về đâu? Anh em mình có về địa phương được không?
– Cứ trốn về. Làm sao đã có anh Vấn.
– Nhưng anh Vấn chỉ cứu được anh thôi. Anh ấy cứu làm sao được cả hai?
– Mày nhầm! Tao sẽ có cách.
– Không! Em muốn vào chiến trường chiến đấu. Anh không thấy ai cũng muốn chiến đấu à?
– Có mà dở hơi! Nó toàn máy bay tàu chiến. Tao không muốn chết.
– Nhưng đào ngũ cũng chết. Em không quay về đâu.
– Thằng này ngu quá! Giờ tao phải làm sao? Hu hu…Bu ơi ời…
Không thuyết phục được em họ, Húng sống trong trạng thái vô cùng hoang mang. Lúc nào cái chết cũng ám ảnh anh. Quân số đơn vị anh giảm rất nhanh. Có người sáng ra còn đùa tếu với anh em xong quay xuống suối lấy nước đã bị chôn vùi hoặc tan ra từng mảnh. Anh em vừa bắt những con cá to bằng bắp chân mang về nấu với lá me rừng chưa kịp ăn đã bị bom hất tung. Không còn dấu vết của con suối. Không còn nồi cá nấu. Mấy anh em quây quần bên nồi canh hi vọng được bữa ăn ngon cũng không còn người nào sống sót. Họ tan lẫn vào nhau. Những người còn sống gom họ lại cho vào tăng chôn chung.
Những người anh em vừa mới cười đùa với nhau phút chốc đã tan biến vào lòng đất khiến Húng càng sợ hãi. Anh giấu Hải việc anh sẽ tìm cách trốn đơn vị. Anh hi vọng chỉ cần mình thoát khỏi vùng ném bom và đánh phá ác liệt là sẽ thoát. Kiểu gì anh Vấn cũng cứu anh.
Mùa mưa trong rừng Trường Sơn làm ảnh hưởng tới cả ta và địch. Việc vận tải vũ khí và lương thực khó khăn khiến anh em lâm vào tình trạng đói rét liên miên. Khỏi phải nói muỗi vắt đông đặc đến mức nào. Bất cứ lúc nào một vài con vắt căng mọng máu cũng có thể lăn ra khỏi người. Chúng chui vào nách, vào bẹn, vào bất cứ chỗ nào trên người một cách rất êm, khi no nê chúng sẽ tự rời cơ thể. Những ngày đầu anh em còn sợ sệt hoặc tích cực rứt chúng ra, sau đó mặc kệ, có chú ý cũng chẳng ngăn được. Bị muỗi vắt hút máu cộng với ăn uống kham khổ khiến người nào người nấy xanh nhợt như tàu lá non. Không ít người lính nằm xuống vĩnh viễn không phải vì bom đạn mà vì phải chịu đựng cuộc sống quá khắc nghiệt nơi rừng thiêng nước độc. Sốt rét, suy kiệt thể lực, tả, lị…là nỗi kinh hoàng của mỗi chiến sĩ. Mặc dù được trang bị thuốc men nhưng hầu như người lính nào cũng trải qua một trong các căn bệnh ấy. Hải khoẻ như trâu vâm mà cũng bị sốt rét quật ngã. Môi nó thâm đen sì, mắt trắng dã mỗi khi lên cơn. Húng ôm Hải khóc:
– Mày không nghe anh thì chưa bắn được thằng Mĩ nào đã chết rồi. Chết thế phí lắm.
– Em…em…không…chết được….mai em khỏi…hừ…hừ…
– Uống thuốc đi. Nghe lời anh nhá.
– Em còn nhiều thuốc lắm. Anh cứ cho em gấp đôi vào….hừ… người em cao lớn thế này cơ mà….hừ…hừ.. Anh đừng trốn. Ở đơn vị còn có anh…hừ…em và có cơ may được …hừ …được….hừ… chiến đấu.
– Biết đến bao giờ. Thằng Mĩ nó rải chất độc hoá học dày đặc như thế này. Hôm qua có người nói nó còn thả chất độc hoá học trộn với nước tạo thành bùn sền sệt khiến cho người và xe không đi lại được cơ.
Hải dần dần cắt cơn. Khuôn mặt nó tươi tỉnh trở lại. Mắt Hải vẫn ánh lên niềm lạc quan như mọi khi. Trong khi Húng rỉ rả nói những lời tuyệt vọng thì Hải vẫn khăng khăng:
– Nó có vỏ quýt dày thì mình có móng tay nhọn. Anh không biết lâu nay bộ đội mình dùng cách chở hàng khác à?
– Bằng cách nào!
– Thả hàng trôi sông.
– Ở đâu thế?
– Sông Kông và sông Bang Fai. Lương thực, đạn dược, nhiên liệu cứ việc đóng vào thùng thép thả trôi sông. Đầu kia chỉ việc đón và chuyên chở. Anh bảo quân ta có cừ không?
– Nhưng lấy đâu ra nhiều thùng thép thế? Thằng giặc nó có vũ khí điều khiển từ xa. Kiểu gì nó cũng phát hiện được.
– Anh không hiểu rằng cuộc chiến của ta là cuộc chiến của toàn dân. Cả đất nước này ở đâu cũng có xương rơi máu đổ. Căm thù cao độ rồi. Ai cũng muốn đánh đuổi bọn cướp nước. Nó ở đâu đến không thể thắng được.
Húng cười sằng sặc như người lên cơn điên. Thằng này giác ngộ quá chừng. Nó sẽ không bao giờ nghe anh.
– Này! Sáng mai mày lại vác giúp anh ít quân trang nhá. Anh sợ không đi nổi.
– Anh yên tâm! Em đeo hết đồ nặng còn đồ nhẹ dồn sang ba lô của anh.
– Thế mày phải cố gắng lên.
– Anh Húng ơi! Uống nước có sợ nhiễm chất độc hoá học không?
– Ai biết được. Nghe đâu mấy chục năm mới phát bệnh. Mà anh em mình biết sống chết thế nào?
Hai anh em cứ người nọ động viên người kia. Lúc anh hoang mang thì em cứng rắn, lúc em mềm lòng anh lại thủ thỉ tâm tình. Có điều trong người Húng vẫn run sợ vì cảnh từng chùm bom Mĩ cứ nhằm đường Trường Sơn mà thả.
Một buổi sáng đơn vị được lệnh xuất phát. Anh em ai cũng xanh xao bước xiêu vẹo trên đường đất trơn tuột. Con đường không biết được hình thành thế nào mà dài như thế? Bao nhiêu lần Hải tự hỏi. Anh Húng bảo đi nhiều thì thành đường chứ nơi rừng sâu núi thẳm này bình thường ai vào làm gì. Hải biết nếu không có Hải anh Húng sẽ khổ như thế nào. Anh ấy B quay là cái chắc. Hầu như những việc nặng nhọc Hải đều giúp anh. Biết anh thích ăn đồ tươi Hải không quản ngại để ý đoạn suối nào có cá là nhảy xuống. Hải sát cá có tiếng hồi ở nhà. Chỉ cần Hải xách cần câu đi nhoáng một cái là đã có xách cá mang về. Con suối nào có cá Hải biết ngay. Mùa Đông thì cá tụ vào trong hốc, mùa Hè chúng thường bơi lội. Cá ở những con suối dọc đường Trường Sơn không thiếu. Hôm Hải nướng, hôm cho vào chiếc nồi nhỏ nấu với nắm lá chua. ở rừng không thiếu gì loại lá chua. Bom Mĩ bỏ tan nát vẫn có những loại cây sống được. Anh Húng chỉ cần chợp mắt một lúc đã có bát rau tươi hoặc con cá nhấm nháp. Có lúc anh ôm vai thằng em họ:
– Anh em mình phải thương nhau. Nhưng anh chẳng biết làm gì, chỉ trông cậy vào em.
– Anh cứ khoẻ để mai mốt vào chiến dịch chiến đấu hăng là được. Em thích cả hai anh em mình cùng lập công.
– Chả biết còn sống đến ngày ấy nữa không. Anh thấy xa vời quá.
– Anh cứ hay bi quan. Mình đã trải qua từng ấy đường đất, từng ấy trận bom thì sống là cái chắc.
– Mày nhớ nếu tao có chết thì về nhà bảo với bu tao là tao chiến đấu dũng cảm lắm nhá. Cả nhà tao sẽ tự hào có hai thằng con trai đều góp công vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Anh em mình có kỉ vật gì phải cố giữ đưa về cho gia đình.
– Đời lính có gì đâu. Mấy đồ hôi hám trong cái ba lô rách này thôi.
– Thế mới quý chứ.
– Anh này! Em có tiền anh cầm giúp em nhá.
– Thằng này! Mày cầm tiền đi làm gì?
– Thầy bu em bắt cầm đi dặn em to khoẻ phải mua cái gì ăn thêm. Nhưng chẳng có gì cả. Anh cầm giúp em nhá.
– Biết đứa nào chết trước đâu. Cứ cầm lấy.
– Em không cầm được tiền, khổ lắm. Anh cầm giúp em.
– Thế lúc nào cần anh đưa cho. Nhớ thằng nào còn sống về quê kể hay vào nhá. Anh em mình không bằng anh Vấn thì cũng phải suýt soát.
– Anh ăn đi. Anh em mình giao hẹn bao nhiêu lần rồi, nhắc lại làm gì.
– Nhỡ mày quên thì sao?
– Riêng bộ đội mình trải qua những năm tháng này đã là anh hùng. Sau này em có quyền sẽ phong tất.
Húng cười sằng sặc:
– Thế có mà ra ngõ đụng phải anh hùng à?
– Đất nước mình là thế mà.
Hai anh em đang tán gẫu thì có lệnh hành quân gấp. Ai nấy quáng quàng thu dọn đồ lề. Chỉ là những đồ dùng tối cần thiết trong ba lô. Thuốc men, lương khô, ống cóng ruốc thịt, một ít muối, tăng võng và bộ quần áo. Mỗi ngày bộ đội được phát nắm cơm và tối đến khi dừng chân thì được ăn một bữa cơm nóng. Gia tài người lính lúc này nhẹ tênh. Thế mà Húng vẫn thấy nặng nề. Anh phải trút sang cho Hải. Chiếc gậy cứ chao đảo theo nhịp bước. Hải đi trước nhưng thỉnh thoảng vẫn quay lại cầm tay anh kéo đi. Có lúc Hải luồn ra sau đủn anh. Hải nói đùa:
– Chẳng lẽ em cõng anh cho nhanh.
– Cũng được! Như thế càng thích.
– Nhưng anh không sợ mọi người biết à?
– Hay là anh giả vờ ốm.
– Cũng được. Em lấy võng bảo một cậu nữa khiêng anh nhá.
– Phải báo cáo chỉ huy đã. Nhưng thôi! Người như tao bảo không ốm mới là lạ. Nhưng anh thích mày cõng anh cơ.
Thế là Húng đu vào vai Hải. Ngoài hai chiếc ba lô Hải còn đeo thêm ông anh họ. Với sức vóc như con trâu mộng thời còn ở nhà Hải có thể vác vật có trọng lượng gấp ba anh Húng. Song qua thời gian dài hành quân, bước chân Hải phải dò dẫm bấm từng bước. Anh em vừa thở dốc vừa trêu đùa:
– Trông như bố cõng con đi học. Sau này về đẻ nhiều vào nhá.
– Chắc chắn rồi! Còn có thằng mà đi đánh giặc chứ.
– Chẳng lẽ truyền đời đánh giặc à?
– Ông thấy đất nước mình có lúc nào yên đâu. Đất đai nhiều, tài nguyên lắm nên nhiều đứa nó nhòm.
– Thế thì không đẻ nữa. Suốt ngày chỉ đánh nhau. Tưởng đuổi được thằng Mĩ thì thôi chứ.
– Ông này lại ích kỉ rồi. Phải nghĩ đến điều lớn lao hơn, vĩ đại hơn chứ.
– Ông buồn cười thật, người như con cá mắm thế này nghĩ làm sao được điều lớn lao với vĩ đại. Chỉ được cái mị dân.
Bỗng tiếng máy bay từ đằng xa vọng đến. Mọi người chưa kịp tản ra thì đàn B52 đã ở ngay trên đầu. Chúng quần nát khu vực nào nghi vấn. Bom trút xuống liên tiếp. Tiếng kêu la vang vọng. Trong phút chốc đất trời mù mịt. Những hố bom sâu toang hoác. Thật lạ là Hải và Húng vẫn nằm sát bên nhau. Hố bom chỉ cách chỗ hai anh em có vài chục bước chân. Sợ chúng quay lại, Hải lôi anh lăn xuống chỗ trũng. Khi Hải lôi được anh họ lên miệng hố đã thấy đất đá trộn lẫn thịt xương của anh em vung vãi khắp nơi. Húng ôm mặt khóc thét lên. Anh gọi mẹ, gọi cha và trở nên điên loạn.
-Con không muốn chết! Con không muốn chết! Anh Vấn ơi cứu em! Hải ơi tao bảo mày trốn đi mà mày không nghe.
Húng lảm nhảm một lúc lâu. Bom nổ, hai anh em bị hất xuống bờ suối và bị đất vùi. Nghe Húng khóc Hải cũng hoảng định cất tiếng an ủi anh. Nhưng không kịp nữa, tiếng ầm ì của máy bay lại đến. Thường chúng chỉ rải bom một lần, lần này sao chúng quay lại? Không kịp suy nghĩ, Hải hét lên:
– Anh Húng! Xuống dưới này núp! Máy bay đấy!
Nhưng Húng không nghe thấy gì. Anh điên dại cào cấu đất đá. Anh nhặt được một khúc tay vẫn còn ấm nóng của đồng đội và ngơ ngẩn cười. Nhanh như chớp, Hải lao lên túm lấy người anh họ, kéo mạnh xuống bụi cây xơ xác và nằm đè lên trên. Một quả bom lơ lửng trên không trung vài giây, tiếp theo là tiếng nổ long trời lở đất. Tất cả rơi vào im lặng. Không còn sự sống, không còn sự hiện diện của những người trai trẻ cách đây ít phút.
Trời âm u mờ mờ ảo ảo. Sương mù giăng như mạng nhện. Dưới hố bom sâu hút, Húng thở một cách khó nhọc. Không biết anh nằm ở đây bao lâu, chỉ biết bây giờ đã sâm sẩm tối. Anh cố nhoài ra ngoài để nhìn cho rõ. Anh không biết mình nhìn gì, làm gì tiếp theo. Đầu óc anh mụ đi giờ mới bắt đầu hồi phục. Hình như mình đang ở chiến trường? Hình như mình được tham gia chiến đấu? Nhưng còn thằng Hải đâu?
Nhớ đến em, Húng mới thật sự bừng tỉnh. Sao lại yên tĩnh kì lạ như thế? Có phải mình vừa trải qua giấc ngủ nặng nề vì một giấc mơ kinh hoàng? Dù gì cũng phải tỉnh táo để xác định mình đang ở đâu ? Phía trên kia có một quầng sáng. Húng cố bò lên. Một cái gì mềm mềm ươn ướt đụng vào tay. Máu! Máu đông đặc vẫn còn lầy nhầy. Anh cố mở mắt nhìn cho rõ. Ôi trời ơi! Tay của Hải. Anh vẫn nhớ cái áo bị một miếng cháy dưới cổ tay vì nướng cá cho anh. Húng hét lên một tiếng vang vọng cả núi rừng Trường Sơn:
– Hải ơi!
Hải bị đất đá vùi kín, chỉ một cánh tay lắt lẻo thò ra phía anh. Húng cố gắng bới nốt phần thân thể Hải. Vừa làm anh vừa kêu gào đến khản tiếng. Trong phút chốc cả người Hải hiện ra. Húng quỳ xuống ôm lấy Hải.
– Em ơi! Sao em nỡ bỏ anh đi? Sao em chết thế này? Em ơi….
Một mình Húng ngồi bên xác em vừa khóc vừa lảm nhảm. Anh nói với Hải nhiều điều mong em hiểu. Anh em sống những ngày tháng khổ cực nhưng đùm bọc nhau. Tại sao em không nghe anh? Anh đã khuyên em không biết bao nhiêu lần mà em không nghe. Giờ thì còn ai biết đến anh em mình? Sao yên ắng quá vậy? Anh biết làm sao bây giờ? Anh ôm em chặt thế sao em không tỉnh dậy? Anh đang truyền hơi ấm cho em mà em vẫn lạnh ngắt thế này? Không! Em không thể chết được.
Húng nâng người Hải dậy, luồn tay qua lưng Hải nắn bóp thật mạnh. Đằng trước, đằng sau, chân tay Hải dường như mềm lại. Húng không còn nhớ mình đã làm những gì. Mọi ngày Húng không thể bê nổi bao đất ba chục cân mà hôm nay anh nâng Hải dậy không mấy khó khăn. Anh đang nuôi một niềm khao khát cháy bỏng rằng Hải sẽ tỉnh dậy vì những cố gắng của anh. Sau một hồi kêu gào và hành động điên cuồng Húng bị kiệt sức và lả đi…
Húng không biết mình được đánh thức như thế nào. Chỉ biết khi tỉnh dậy anh đã nằm trên chiếc võng của trạm y tế. Đầu anh quấn băng trắng xoá. Thì ra một mảnh bom sượt qua đầu anh, bóc ra một mảng da đầu. Anh ngất đi và khi tỉnh lại thấy Hải nằm bên cạnh. Anh chỉ tập trung vào việc tìm Hải và sống trong hoảng loạn nên không biết gì nữa.
Việc của anh là ngồi phắt dậy đòi ra chỗ Hải. Cô y tá đang thay băng cho một thương binh gần đấy lên tiếng:
– Anh phải nằm yên một chỗ vì vết thương ra nhiều máu lắm.
– Tôi phải đi tìm em tôi. Nó muốn ra chiến trường.
– Nhưng bây giờ anh đang bị thương.
– Em tôi nằm dưới hố bom cơ mà. Tôi cứu em tôi mà!
– Anh ấy hi sinh rồi.
– Cái gì? Em tôi chết làm sao được. Nó còn phải ra chiến trường. Nó đã đánh được thằng Mĩ nào đâu?
– Chúng tôi đã tìm thấy anh và anh Hải. Có giấy tờ trong túi áo. Anh Hải hi sinh rồi.
– Không được! Tôi phải đi tìm em tôi.
Không để y tá kịp ngăn lại, Húng phóng ra ngoài như tên bắn. Trước mắt anh ngổn ngang cây cối và hố bom. Không còn sự sống trước sự huỷ diệt kinh hoàng. Anh không biết phải chạy về hướng nào. Xung quanh anh, tứ phía đều tan hoang. Anh không thể xác định được bãi bom Hải và anh nằm hôm qua. Anh lại khóc nức lên. Hải ơi! Em nằm ở đâu?
Húng cứ chạy. Anh ngã dúi dụi. Đất đá, cành cây đập vào người anh thâm tím nhưng anh vẫn không ngừng chạy. Anh phải tìm được Hải để xem em anh thế nào. Hình như là hố bom này. Cũng hốc cây, cũng bờ đất này đây. Hải ơi!
Nhưng sao hôm nay hố bom này sâu thế? Húng nhìn xuống mà tối tăm mắt mũi. Anh nhớ hôm trước anh lôi được Hải ra khỏi đống đất đá rồi cơ mà. Chỗ đất dưới kia chính anh dùng tay san phẳng để Hải nằm cho khỏi đau người. Anh đã nắm bàn tay có cái vạt áo bị cháy mà lắc để em tỉnh dậy! Thế thì Hải đâu?
Húng cố nhìn xung quanh xem có thể Hải tỉnh dậy và bò ra chỗ nào đó. Nghĩ đến đấy anh co giò định nhảy xuống dưới thì một bàn tay túm chặt lấy anh. Bàn tay có sức mạnh lạ thường. Cả người Húng ật ngửa về phía sau. Một giọng nói đầy uy lực cất lên:
– Anh quay về trạm xá ngay.
– Nhưng tôi phải tìm em tôi.
– Anh ấy đã hi sinh. Thương lắm nhưng anh phải chấp nhận sự thật.
– Không phải!
– Đúng là như thế.
– Không đúng! Hôm qua tôi hồi sức cho nó rồi mà. Nó bảo nó không chết được.
– Chúng tôi tìm thấy anh nằm cạnh anh ấy. Chúng tôi tưởng cả hai người đều hi sinh. Nhưng anh may mắn hơn bạn anh. Trận bom từ hôm kia, tức là anh nằm dưới hố bom gần một ngày.
Húng khóc oà lên:
– Nó không phải là bạn. Nó là em tôi. Hải ơi!
– Anh phải chấp nhận một sự thật. Chiến tranh mà. Người sống được là may mắn. Người chết thì cũng vì tổ quốc. Anh còn sống thì phải cố gắng sống để còn tiếp tục chiến đấu. Để tôi đưa anh ra chỗ em anh.
Húng rũ ra như tàu lá héo. Người bác sĩ quân y phải xốc nách anh mới đi nổi. Một nấm mộ thấp lè tè im lìm bên gốc cây cháy trụi. Húng gục xuống. Anh mất hết dũng khí và trong đầu anh trống rỗng.
Sau những ngày đau khổ ấy Húng hầu như không biết gì nữa. Người anh đơ ra thậm chí không phân biệt được ai vào ai. Đang nằm ngủ tự dưng anh cởi hết quần áo chạy ra mộ Hải. Anh không kêu gào, không khóc lóc. Bàn tay anh tìm từng nắm đất mịn bốc lên đưa vào mộ Hải. Trạm y tế chờ đưa anh về tuyến sau điều trị vì căn bệnh này ít người mắc phải. Họ phải lo chữa trị vết thương cơ thể chứ chưa có thời gian để chữa trị vết thương tinh thần. Dần dần mộ Hải dâng cao và rộng ra qua bàn tay Húng. Có hôm mệt quá anh nằm ngay bên mộ Hải thiếp đi. Trong mơ anh thấy Hải nói: “Về nhà anh bảo với thầy bu em là em chiến đấu dũng cảm lắm nhá. Anh ghi tên em cho vào lọ penicillin chưa? Anh quên rồi à?”
Húng choàng tỉnh. Ừ nhỉ! Mình chưa hỏi xem họ có viết tên Hải cho vào lọ penicillin không? Chắc chắn là không bởi vì họ làm sao biết được tên Hải. Đơn vị anh đã bị bom vùi hoàn toàn.
Không cần suy nghĩ nhiều, Húng cào như điên dại vào mộ Hải. Anh phải bới mộ em ra để thực hiện lời Hải dặn. Nếu không anh sẽ mắc tội thất hứa. Bàn tay anh đỏ lên và rấn rấn máu. Mặc kệ! Anh phải nhìn thấy Hải và làm tròn lời em dặn.
Mộ Hải đang vơi dần thì Húng bị người bác sĩ đưa về. Húng điên thật sự trong con mắt của cán bộ y tá trạm quân y. Họ giải thích thế nào Húng cũng không chịu nghe. Anh một mực làm theo lời hai anh em đã quy ước. Thừa cơ trốn được lúc nào là anh chạy ra mộ Hải. Mộ Hải lại dần dần thấp xuống. Lần cuối cùng giữa đêm trăng, chờ tất cả chìm vào giấc ngủ, Húng nhón gót trốn khỏi trạm xá.
Ánh trăng vằng vặc soi một vùng trận địa văng vãi chi chít hố bom. Thỉnh thoảng vài thân cây thấp trụ lại nhưng cũng bị bầm dập vì hết đợt bom này đến đợt bom khác. Những ngày ở quê có trăng sáng thế này đẹp và vui lắm. Trăng lúc ẩn lúc hiện trôi trên bầu trời cao vút. Những ngôi sao như xa hơn và chỉ là những đốm nhỏ. Trai gái đùa giỡn nhau và nằm dài trên bờ đê ướt sương. Cỏ mượt như nhung và sạch bóng đang lấp lánh vì những giọt sương được ánh trăng vàng chiếu vào. Hải đưa tay vạt nắm cỏ để sau đó bàn tay ướt đẫm và áp vào mặt Mai. Lập tức má Mai lại sáng lên lấp lánh. Húng chỉ biết cười trừ vì hồi ở nhà anh nhát lắm, chẳng dám bắt quen với người bạn gái nào. Còn bây giờ? Người Hải hiện ra im lìm trong tấm tăng và đang bị phân huỷ. Húng thấy thoang thoảng mùi khăn khẳn nhưng anh không hề sợ.
Húng giang tay ôm chầm lấy Hải. Ngôi mộ bây giờ thấp hơn so với mặt đất độ gang tay. Anh sẽ mở tấm tăng để nhìn Hải lần cuối. Bàn tay anh liên tục cào đất đá. Anh thấy tay mình bỏng rát nhưng không được phép nghỉ. Nhỡ ai phát hiện ra thì sao? Nhỡ họ đưa anh về tuyến sau ngay lập tức thì sao? Phải nhanh tay lên.
Bàn tay Húng bỏng rát cũng là lúc chiếc tăng bó Hải hiện ra. Nước mắt anh tự nhiên chảy dài. Anh tìm được em rồi ! Anh có lọ penicillin đây rồi !
Chỉ cần một động tác nhẹ là Húng đã mở được chiếc tăng. Tim Húng như bị bóp nghẹt. Anh đỡ bộ ngực kẹp lép đang phập phồng để cả người không sụp xuống. Mới ít ngày mà Hải đã thay đổi thế này ư? Hải trở thành người thiên cổ rồi ư?
Húng nhẹ nhàng mở lớp vải. Kiến và mối đang gặm dần cơ thể cường tráng hôm nào. Anh cởi áo quất như điên dại vào những con côn trùng hung bạo. Một số con chết ngay tại chỗ dính bết vào đám thịt lầy nhầy, những con chạy được thì toé ra xung quanh.
Không hiểu sao lúc này Húng bình tĩnh lạ. Tình máu mủ ruột rà giữa trời cao lồng lộng này giúp anh vượt qua nỗi khiếp sợ. Chưa bao giờ Húng cận kề với cái chết đến thế. Hải thiếu mất một cánh tay. Những người quân y không thể hoặc không có thời gian tìm kiếm cánh tay bị thất lạc. Nhưng vết cháy ở tay áo vẫn còn. Đôi mắt Hải giờ trũng xuống lờ nhờ trong ánh trăng. Húng không khóc thảm thiết như mấy hôm trước mà chậm rãi vuốt nhẹ cơ thể nham nhở của em. Ánh trăng mảnh mai đang chao nghiêng mãi đằng xa.
“Hải ơi! Em nằm đây nhé. Nhớ phải nằm đúng chỗ này để sau này anh quay lại đưa em về quê. Em không được biến mất khỏi mặt đất này. Anh sẽ nói với thầy bu em rằng Hải dũng cảm lắm. Nó chiến đấu kiên cường lắm. Em yên tâm nằm nghỉ.”
Húng cố nhét lọ penicillin vào miệng Hải. Anh thở một hơi rõ dài. Thôi thế là mình đã làm theo lời dặn của Hải. Còn chuyện Hải chết cũng không phải lỗi của anh. Anh không muốn Hải chết. Húng ngửa mặt giữa trời đất bao la thề rằng anh không muốn Hải chết. Không bao giờ…
Hôm sau Húng không điên dại gào thét và không trốn trạm ra mộ Hải nữa. Anh đã ghi nhớ thật kĩ và nung nấu một kế hoạch riêng mình. Ngọn lửa khát vọng cháy trong anh mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đó là khát vọng làm một linh hồn sống. Chứng kiến năm tháng vừa qua đối với anh là quá đủ.
Chỉ vài ngày Húng nhờ trạm giao liên tìm hộ anh hùng Hoàng Văn Vấn. Lệnh gọi anh về lán chỉ huy mặt trận. Và không ai ngờ cũng thêm vài ngày nữa Húng được trở lại quê nhà chờ nhận lệnh ra nước ngoài học tập. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng vì đất nước hoà bình rất cần có đội ngũ cán bộ giỏi. Giấy chứng nhận anh Húng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong quân ngũ được viết trang trọng có những con dấu đỏ chót của đầy đủ các đơn vị từ thấp đến cao. Anh cũng có một cái giấy chứng thương nhưng ông Vấn dặn không nên dùng vào lúc này. Hãy cất kĩ. Sẽ có lúc dùng đến. Tất nhiên chẳng ai dại gì trưng ra. Và chuyện anh đã làm gì trong đợt hành quân ra trận, cả chuyện của Hải phải giấu kín. Lúc này chiến trường ác liệt không thể thông báo hết con số thương vong.
Không còn tiếng bom, không phải đối mặt với hiểm nguy nhưng vết thương tinh thần vẫn đeo đẳng Húng. Cuộc sống hiện đại và hối hả của những năm tháng bên trời Tây không che lấp được nỗi khiếp sợ ngày nào. Vào những đêm giá lạnh đầy tuyết rơi, anh hay mơ thấy từng chùm bom lơ lửng như chùm bóng bay đang tìm anh để dội xuống. Hải cúi sát mặt anh bảo sao anh không chạy đi, anh em mình chết đấy. Anh ú ớ muốn vùng dậy chạy trốn mà không được. Chân tay anh vùng vẫy đập thình thịch xuống giường, có hôm lăn cả ra sàn nhà. Anh em cùng phòng nhiều lần hú vía vì những phút phát rồ của anh. Anh mơ cả lúc đang thức. Gặp điều gì nặng đầu óc là anh gào toáng lên và chạy lung tung. Bạn bè gọi anh là Húng “điên” từ những năm tháng ấy.
D.T.N