“Tiếng hát” là bài thơ trong chùm thơ dự thi số 2 của tác giả Đàm Khánh Phương được giới thiệu trên vanhaiphong.com được nhiều bạn đọc chia sẻ. Trong đó có bài viết của Tiến sỹ Ngữ văn Huỳnh Văn Hoa, Nguyên giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Đà Nẵng, Bí thư Đảng ủy khối các cơ quan thành phố Đà Nẵng về bài thơ này.
Vanhaiphong.com trân trọng giới thiệu bài viết của TS Huỳnh Văn Hoa.
“Tiếng hát” là bài thơ trong chùm thơ dự thi số 2 của tác giả Đàm Khánh Phương được giới thiệu trên vanhaiphong.com được nhiều bạn đọc chia sẻ. Trong đó có bài viết của Tiến sỹ Ngữ văn Huỳnh Văn Hoa, Nguyên giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Đà Nẵng, Bí thư Đảng ủy khối các cơ quan thành phố Đà Nẵng về bài thơ này.
Vanhaiphong.com trân trọng giới thiệu bài viết của TS Huỳnh Văn Hoa.
TIẾNG HÁT
Mấy đời bánh đúc… (Ca dao)
Tháng bảy rằm này nhờ hương khói
Gửi về dưới chị mấy lời thưa
Từ khi vắng chị nhà trống giột
Sớm tối em về che nắng mưa
Ơn giời các cháu dần khôn lớn
Hai chị em ta sắp sửa bà
Thương em con nó càng nhớ chị
Sáng lại nét cười trong mắt cha
Bánh trái ai dè nỡ vướng xương
Lời xưa thầm trách kẻ hẹp đường
Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ
Đã đến tay mình ai nỡ buông
Chị cứ bình yên ở dưới này
Cuộc đời như chiếc lá thu bay
Ru con chị hát ngàn năm trước
Nâng cháu giờ em xin đỡ tay.
Đàm Khánh Phương
TIẾNG HÁT: KHÚC HÁT GỬI MỘT NGƯỜI – Huỳnh Văn Hoa
Nhà thơ Đàm Khánh Phương sinh năm 1943 tại Vân Đình – Hà Tây (cũ), quê hương của dòng tộc Dương tài hoa (Dương Khuê), Hiện nay, sống và viết tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hơn 50 năm làm thơ, đã xuất bản 3 tập thơ riêng và đoạt nhiều giải thưởng văn chương do các hội văn học nghệ thuật và các ngành, các cấp tổ chức…
Đàm Khánh Phương bền bỉ yêu và bền bỉ làm thơ, đôi khi lóe sáng những cách tân mới mẻ, nhưng trước sau ông vẫn là nhà thơ dung dị, chân thành và hoài niệm như một thế hệ làm thơ cùng thời đã trải qua những bão táp của chiến tranh, của biến động xã hội.
Tiếng hát của Đàm Khánh Phương bắt đầu từ lời ca dao buồn: Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng. Không phải ngẫu nhiên mà người viết bài thơ này dẫn lại câu ca xưa. Câu ca ấy phản ánh thân phận của những cảnh đời dạt trôi khi phải sống cảnh mẹ ghẻ con chồng. Văn chương từng có những trang đẫm đầy nước mắt về các cuộc đời như thế! Đó là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, nói như Thạch Lam, “đây là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại” đối với người mẹ đi bước nữa. Đó là nỗi lòng và tâm trạng của Nguyễn Thị Mai trong Nói với con chồng, một tâm trạng, một đợi chờ được sẻ chia, được yêu thương đối với người con gái riêng của chồng:
Dì không mang nặng đẻ đau
Đứt dây mà xót thương bầu, bí ơi!
Kệ cho bánh đúc mấy đời
Người ăn người lại nói lời nghiệt cay
Sang ngang một chuyến đò đầy
Sông sâu run cả vòng tay đôi bờ
Đêm nay cánh cửa khép hờ
Dì không ngủ được nằm chờ bước con.
Bài thơ khép lại, như “cánh cửa khép hờ”, vẫn chưa có bước chân bước qua, vẫn còn sự chờ đợi:
Sao con chẳng thể xưng con
Cho dì cảm thấy ấm hơn căn nhà?
Cứ lầm lũi bước vào, ra
Cho dù tủi phận mẹ gà con…ngan…
Tiêng hát của Đàm Khánh Phương lại khác. Cả bài thơ là những lời thoại, nói với người đã khuất, rằng là, không may cho chồng và con, chị lìa cõi thế. Em là người đến thay chị, “sớm tối em về che nắng mưa”.
Bài thơ trong trẻo như tiếng hát. Có lẽ cũng không thể nào khác hơn.
Mở đầu bài thơ bằng những câu thơ có nhiều tầng nghĩa:
Tháng bảy rằm này nhờ hương khói
Gửi về dưới chị mấy lời thưa
Từ khi vắng chị nhà trống giột
Sớm tối em về che nắng mưa…
Tháng bảy, mùa Vu Lan, mỗi người, tùy cảnh ngộ, đều thắp nén hương, nhớ về mẹ. Người phụ nữ đến sau, kể chuyện trần gian, kể chuyện gia đình, kể chuyện con cái. Giọng kể chân thành, cảm động. Sâu xa hơn, đây không chỉ là lời kể mà là “lời thưa”, “gửi về dưới chị”, giãi bày cùng chị, thưa với chị về sự đổi thay của gia cảnh. Từ khi vắng chị, cảnh nhà trống giột, đã có bàn tay em đỡ đần, “che nắng mưa”, khó khăn đã vơi dần. Người phụ nữ đến sau ý thức được, hay đúng hơn, tự đáy lòng, mong muốn cùng chồng, cùng con của chồng làm cho cuộc sống bớt nhọc nhằn. Ở đây có sự cảm thông, chia sẻ cho nhau nỗi yêu thương, lòng trắc ẩn về trách nhiệm tự nguyện của kẻ đến sau.
Lời thơ nhã, có trên có dưới, trọng mà lại thật lòng, kính mà không đãi bôi, ngọt nhạt. Cái thật của tấm lòng hiện ra trong cái thật của câu chữ. Phải có một lòng yêu người, yêu đời,…mới có lời thơ ấy. Thật chí nghĩa chí tình ! Ở khổ thơ thứ hai, lời lẽ chân tình, như cuộc đối thoại giữa hai nhân vật, nhắc lại đủ các thành viên một gia đình: em-người thay chị nuôi dạy các cháu, các con-dần khôn lớn, người cha-sáng lại nét cười và chị-người không hiện hữu ở cõi đời. Giữa các dòng thơ là “thương”, là “nhớ”, là ơn trời chở che.
Riêng câu thơ: Hai chị em ta sắp sửa bà, một dòng thơ không chỉ mang đậm tính nhân văn mà còn là tiếng lòng của hai tâm hồn, hai nhân cách, hai ứng xử. Nếu người đã khuất không có một cuộc đời đẹp và nếu người tiếp bước không có một trái tim nhân hậu, thì chắc chắn sẽ không có sự hòa điệu tuyệt vời này!
Mạch thơ được tiếp nối như lời phân bua về lẽ đời xưa nay, vẫn thường diễn ra trong cuộc sống, nghĩa là không có chuyện mẹ ghẻ yêu con chồng. Nêu lại chuyện đời cũng để nói chuyện nhà, nói chuyện thế gian cũng để bày tỏ chuyện gia đình, từ đó khẳng định sự bao dung, khẳng định tình thương:
Bánh trái ai dè nỡ vướng xương
Lời xưa thầm trách kẻ hẹp đường
Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ
Đã đến tay mình ai nỡ buông
Có thể nói, lời lẽ nêu ra trong đoạn thơ đã trách những “kẻ hẹp đường”, ích kỷ, không mở lòng mình ra cho con đời trước, không san sẻ tình cảm của mình đối với những đứa con con mất mẹ, mồ côi. Trên đời này, bất hạnh nhất là mất mẹ, lại mất mẹ ở thuở thiếu thời, thuở cần một bàn tay chăm sóc, nâng niu, che chở. Trẻ con có nét chung, đó là, mong được yêu thương, được bảo bọc, được vỗ về, xóa đi buồn tủi, thì ở đây, từ khi vắng chị, những thiếu hụt đó, đã có em thay chị, làm “vòng tay mẹ”, ấm êm. Người phụ nữ đã tự dặn mình:
Trẻ thơ lỡ tuột vòng tay mẹ
Đã đến tay mình ai nỡ buông.
Từ ngữ :”lỡ tuột”, “ai nỡ buông” bộc lộ sự yêu thương và hy sinh vô bờ bến. Ở đây, chữ nghĩa nhòe đi, chỉ thấy một tâm hồn.
Bốn câu cuối, kết thúc cuộc chuyện trò, xóa đi cách ngăn, thêm niềm tin, nhân vật trữ tình trong bài thơ, thanh thản trải lòng:
Chị cứ bình yên ở dưới này
Cuộc đời như chiếc lá thu bay
Ru con chị hát ngàn năm trước
Nâng cháu giờ em xin đỡ tay.
Lời thầm thỉ “chị cứ bình yên ở dưới này”, đừng bận tâm, có em, thay chị, nối lời ru con mà “chị hát ngàn năm trước”, nâng giấc cho cháu. Lời lẽ thật cảm động, thật sâu lắng.
Bài thơ Tiếng hát, như tên gọi, là khúc hát của một người gửi một người, của trần gian gửi cho cõi khác. Câu chuyện ngập tràn tình yêu, ngập tràn hạnh phúc, niềm tin vào lẽ đời, lẽ trời, ánh lên sự tin cậy, lạc quan, như một câu thơ của tác giả ”Khát khao còn tiềm ẩn tận bên trong”.
Huỳnh Văn Hoa