Tối và sáng trong thơ Nguyễn Đình Minh (Đọc ở đây, lúc này, NXB Hội Nhà văn 2022) – T.S Nguyễn Thị Nhàn

Đọc Ở đây, lúc này, độc giả bị cuốn ngay vào không/ thời gian hiện sinh của nhân loại đầy bóng tối bao trùm, bủa vây khắp hành tinh. Tuy vậy, xuyên qua vùng tối dày đặc đó là nguồn sáng, ánh sáng, vùng sáng, vừa song hành, vừa tương phản gay gắt. Hai vùng tối sáng đó làm nên cấu trúc thẩm mỹ độc đáo thơ Nguyễn Đình Minh. Những âm bản và dương bản; đêm và ngày; ác và thiện; hủy diệt và hồi sinh; tuyệt vọng và hy vọng; giá trị và phi giá trị, nhân tính và phi nhân tính;…, khiến Ở đây, lúc này, như hành trình của những đối thoại, phản biện không dứt giữa hai thế giới đối cực.
1. Ở đây, lúc này là diễn ngôn thế sự nhân sinh trực diện, là diễn ngôn chấn thương khẩn thiết, thống thiết về vấn đề sinh tồn của nhân loại, của sinh thái văn hóa… Tất cả đang cần được cứu rỗi. Đối tượng/ khách thể thẩm mỹ được nhà thơ lựa chọn là những biến thiên dâu bể khủng khiếp: hồng thủy covid, chiến tranh, tốc độ đô thị hóa và nền văn minh kỹ trị. Bóng tối trong thơ Nguyễn Đình Minh chính là những cơn địa chấn nhân họa ấy. Chúng đã và đang hủy hoại những giá trị nhân bản, nhân văn, những giá trị văn hóa do con người kiến tạo hàng ngàn năm. Đặc biệt, môi trường sinh thái đó đã và đang tha hóa con người về phía phi nhân tính. Tối và sáng trong Ở đây, lúc này được tri nhận trên bề mặt con chữ và tiềm tàng trong những hình tượng/ biểu tượng văn chương đa điệu thức, những ẩn dụ, phúng dụ thâm trầm.
Tối, trước hết là đêm tối, bóng tối, những không/ thời gian chết. Mở đầu tập thơ là một “ngày vụn vỡ”. Ngày đã vụn vỡ rồi còn đâu ánh sáng! Ngày đã bị xóa sổ, ngày thành đêm, đêm giữa ban ngày (Ngày vụn vỡ).
Tác giả tái hiện một không/thời gian chết, đầy xác người và máu. “Trong mắt bão”, cơn lốc covid quét qua, cái chết và tang tóc ở lại. Cả hành tinh úng ngập, chìm trong tối tăm, hoang lạnh. Đường nhân loại đi qua, đâu đâu cũng sặc mùi tử khí và máu: “Cánh đồng thời gian, thây người như ngả rạ” (Loài thú đội lốt người); Nhìn máu loang trên da thịt con người” (Nghĩ trong đêm đại dịch); “Trên từng kinh vĩ độ máu loang buồn” (Ngày vụn vỡ) …
Tất cả, tất cả đã trở thành nỗi ám ánh mạnh mẽ, tạo hiệu ứng, rung động nghệ thuật sâu sắc.
Những nguồn sáng, những vùng sáng thế gian cũng trở thành vùng chết. Chết chóc tràn ngập, bao tối những vùng thiêng. Tôn giáo vốn nhân danh nguồn sáng, nguồn thiêng, hóa giải, cứu rỗi con người, giờ đây bất lực, chỉ não nuột cầu hồn. Đất thánh, đất phật trở thành vùng chết: “Tiếng mõ u trầm rơi xuống sông Hằng/ Vùng đất của Lạt Ma oan hồn giăng mặt đất…/ Khói phủ đen trên nóc nhà thiêu xác/ Tiếng chuông nức nở gửi trời xanh” (Viên đạn buồn thứ nhất).
Những biểu tượng thiêng liêng ngạo nghễ bị covid đem ra giễu cợt dưới trời, quốc kỳ rũ màu quốc tang: “Những lá quốc kỳ buông ủ rủ” (Ngày vụn vỡ); “Trăm sắc cờ bợt bạt ngừng bay” (Nghĩ trong đêm đại dịch).
Trạng huống nhân thế biến dạng, đổi màu. Có một dòng sống bị chặn lại, ngừng trôi chảy – một cuộc sống chết: nhịp sống thường nhật ngưng trệ, mọi sinh hoạt cộng đồng bãi bỏ; con người không giao lưu không giao cảm, con người ly xa nhau. Những ngôi nhà như ốc đảo giữa cô đơn. Cuộc sống sau cánh cửa mong manh ký thác vào may rủi: “Sau cánh cửa im lìm “là những cơn đau bám vào viên thuốc” (Trong gió tử thần).
Mỗi yêu thương cũng tự phải co mình. Sự giao cảm gieo mầm chết cho nhau: “Tình yêu cũng rời ghế đã/ Nụ hôn bây giờ thành vũ khí sát thương” (Trong gió tử thần).
Cứ như thế, như thế, Ở đây, lúc này chỉ có những vùng chết câm lặng dưới trời: những thành phố chết, những công viên chết, những thánh đường chết, những ngôi chùa chết, những trường học chết, những cánh đồng chết, những con đường chết, những xóm làng chết, Văn Miếu chết…
Không chỉ nhân thế hoảng loạn, biến dạng, covid có sức mạnh vô hình, nó khiến quy luật, bản thể tự nhiên cũng lỗi nhịp vòng quay, nhịp sinh học con người chối từ lối cũ: “Trái Đất hình như quay lệch trục/ Tất cả văng ra khỏi trái tim mình” (Viên đạn buồn thứ nhất).
Tối trong Ở đây, lúc này còn là nỗi kinh hoàng khác mang tên nhân họa: chiến tranh. Chỉ con người đóng vai kép trong thảm kịch đó. Chiến tranh hủy diệt hành tinh, con người là tội nhân. Cũng vì vậy, con người lại là nạn nhân thê thảm nhất. “Chiến tranh tại sao?”, tác giả đặt ra câu hỏi lớn mà dường như bị lảng tránh, chưa có lời giải đáp. Hàng ngàn năm qua, câu hỏi đó vẫn nhức nhối trên mảnh đất người đời? Những đối thoại, phản biện gay gắt với các ác đã lên tiếng.
Nhân danh khát vọng hòa bình, tác giả đối thoại với các yếu nhân lịch sử – những bạo chúa bày ra trò chơi vương quyền. Trò chơi đó tắm máu nhân loại. Đen tối và cái ác “đùn ra” từ “vực thẳm” của “những chiếc lỗ đen” – những não bộ của các bạo chúa: “Quyền lực mang dã tâm mặn tanh mùi máu/ Khát khao tự lập một thiên đường” (Tản mạn trong những tập mờ).
Chiến tranh điêu linh, hủy diệt. Khủng khiếp nhất là, nó đẩy nhân loại quay về vạch xuất phát ban đầu – thuở hồng hoang: “Máu ròng ròng trên nhãn mác văn minh/ Không ai tin châu Âu thời 4.0/ Có những tháng ngày đang trở về nguyên thủy…/ Văn hóa của nghìn năm chỉ sau một đêm/ Biến thành miền hoang phế” (Thời thiếu lửa, thừa bom).
Bom đạn ngừng rơi, nhưng dư chấn hậu chiến âm thầm, dai dẳng và mạnh mẽ. Những sự thật tàn khốc chỉ có thể lên tiếng khi khói lửa qua đi: “Những sự thật trần trụi của dư chấn chiến tranh/ Có thể âm vang tiếng thơ thời hậu chiến” (Những câu thơ im lặng).
Cuộc chiến thầm lặng mới lại bắt đầu với phần đời còn lại của những người đi qua thời bom đạn. Đó là những vùng tối, những vũng tối nhân gian sang chấn tinh thần. Trong nỗi người nhức nhối ấy, nhà thơ tập trung vào người nữ. Họ là những phận người âm u nhất. Con người đã kéo lê một cuộc sống chết! Họ quên sống. Những phận người cứ héo đi: trinh nữ buồn, sương phụ vật vã, mẹ khổ đau.
Đó là một cuộc sống hao khuyết, què quặt. Họ là những chinh phụ hóa đá thời hiện đại. Lính trận không về, người đàn bà trở thành vợ liệt sĩ – một danh thơm cợt trêu của tạo hóa. Họ tự ru ca trong khúc ai vãn “tiết hạnh khả phong”.
Những người con gái đã “đợi thuyền”. Những bến đợi thành “bến không chồng”. Biết bao vùng hương trinh nữ như thế khắp các vùng quê Việt: “Đất nước có những nốt trầm rả rich mưa ngâu,/ Nhiều cô gái không một lần mang áo cưới” (Đất nước toàn những dòng sông cái).
Xét từ góc độ diễn ngôn đạo đức, người nữ là tấm gương thủy chung son sắt, hy sinh vì nghĩa lớn. Họ được dân tộc tôn vinh. Dưới cái nhìn nhân văn, về quyền sống con người, họ bị tước đoạt quyền sống.
Khúc bi ca người phụ nữ Việt hay những người đàn bà xứ khác trong chiến tranh trên Trái Đất này, cũng chỉ chung một cung trầm não nuột. Hình tượng “những người đàn bà Trung Đông” trên hoang mạc cát mênh mông nhuốm màu liêu trai u uẩn. Họ vật vờ như những bóng ma đen, biểu tượng đen. Họ – Những người đàn bà lầm lũi kéo đời mình trên sa mạc/ Bộ đồ màu tang đang dần hóa khói mây” (Những người đàn bà Trung Đông).
Chiến tranh mềm lại hủy hoại tâm hồn con người, tâm hồn dân tộc, tha hóa văn hóa nội sinh. Đồng tiền ngoại quốc, mộng ước công dân toàn cầu đã mê dụ con người về phía bờ xa ảo. Người Việt quên lối về làng, quên lối về ngày giỗ Tổ. Nhà thơ thường trực, đau đáu nỗi âu lo về tương lai văn hóa Việt sẽ đi về đâu? Đó là nỗi âu lo vong bản văn hóa: “Dẫu vẫn còn đây đất đai và núi rừng sông bể/ Nhưng hồn nước Việt đâu rồi?” (Chiến tranh mềm).
Câu hỏi lớn dội lên từ sáng tác Nguyễn Đình Minh: “Hay chúng ta đã chết?” Chúng ta chết vì dịch bệnh, vì chiến tranh, vì nền văn mình kỹ trị… Con người đã và đang suy tàn. Con người đang xê dịch về phía “bê tông hóa”, “số hóa”, “kim loại hóa”, “dã thú hóa”. Viễn cảnh tăm tối đó khiến ta không thể không hoảng hốt: “Nếu bỗng một ngày loài người hóa vàng ròng/ Thì thế giới thành lặng câm đá sỏi/ Trái Đất xoay buồn trong gió hồng hoang” (Tâm hồn).
2. Sáng trong Ở đây, lúc này là nguồn sáng, ánh sáng, vùng sáng, như một “nguồn thiêng, vùng thiêng”, đối lập tương phản chống lại bóng tối.
Nguồn năng lượng sáng ấy, trước hết là tâm lượng từ chủ thể trữ tình. Ngọn lửa đã ấp iu, nuôi dưỡng, thắp sáng trí tuệ tâm hồn nhà thơ để có một hồn thơ, khỏe khoắn, bản lĩnh.
Sinh quyển văn hóa làng quê, những nghiệm sinh cuộc đời. một năng khiếu thi ca thiên phú, một quá trình học hỏi, tích lũy tri thức nhân loại đã cộng hưởng làm nên một gương mặt tác giả riêng. Có một ý thức trữ tình công dân, cái tôi tự nhiệm, tự nguyện dấn thân gánh lấy phần khó khăn của thi ca vị nhân sinh đã quyết định phong cách nhà thơ. Bởi thế, tác giả đã lao vào những tâm chấn thời đại.
Sáng trong thơ Nguyễn Đình Minh là ánh sáng đánh thức trí tuệ và tâm hồn, lương tri và trái tim con người. Nhà thơ và chúng ta cùng nhập dòng “văn hóa thức tỉnh”. Chúng ta cần thông minh tỉnh táo để nhận diện cái ác, đối thoại và phản biện cái ác. Tác giả cật vấn các yếu nhân bạo chúa, soi thấu những góc tối tăm của con người; lật tẩy chiêu bài dụ ngôn mê hoặc con người; bản lĩnh bóc trần tư tưởng bá quyền, tranh đoạt cưỡng bức thiên hạ: “Con tàu sơn bả văn mình chạy trên đường ray Trung cổ/ Đại dương của nhân gian, be lại nhận ao làng (Đọc sấm Trạng ngày biển động). Với “Chiến tranh tại sao?”, nhiều đối thoại gay gắt đặt ra trước số phận nhân loại? Tại sao không trả lại cho bầu trời “những miền bát ngát xanh và chim bồ câu trắng” (Bầu trời Pi-cát-xô của em). Tại sao “mặt trời thảng thốt hóa màu đen” (Thơ và súng)? Tại sao thiếu bếp lửa yêu thương sưởi ấm nhân loại nhưng đạn bom thừa thãi (Thời thiếu lửa, thừa bom). Tại sao những vùng đất giàu có thành vùng đất chết (Những người đàn bà Trung Đông)? Tại sao cũng con người, lại có thể gieo tình yêu nơi này, gieo bạo tàn nơi khác (Gửi ông Obama, Cuộc chiến thời văn minh, Mạng nhện)?
Chúng ta cũng cần ngộ ra câu chuyện ngàn đời trong mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên. Con người ảo vọng, ngạo cuồng cho mình là chúa tể, nhưng dường như, con người vô cùng bi thảm. Trước thiên nhiên vĩ đại, hóa ra, con người chỉ là cát bụi, yếu ớt đáng thương, mê ảo: “Những bầy kiến mang tên nhân loại/ Dưới đáy giếng sâu vẫn giương mắt nhìn trời” (Chủ nhân); “Chối bỏ mẹ Thiên nhiên, ngỡ mình hóa thánh”/ Vẫn nhỏ bé mong manh…/ Và vẫn chỉ con người” (Nghĩ trong đêm đại dịch). Chúng ta hãy hòa đồng, hãy đừng làm tổn thương thế giới tự nhiên này thêm nữa: “Huyễn hoặc với những chân trời ảo/ Mà quên trên đầu rờ rỡ mảnh trời xanh” (Ta là ai?).
Đâu đây, lời khuyên của bậc hiền triết xưa dường như vọng lại: thuận theo tự nhiên mà sống! Biết bao sâu xa, sâu sắc trong mệnh đề giản dị đó. Không chỉ là quan hệ giữa ta với tự nhiên, mà còn là ta với ta giữa nhân loại: “Thuận theo tự nhiên thong thả sống/ Như sóng sau nổi lên/ Bình thản sóng trước chìm” (Nghĩ trong mùa lá rụng). Gột rửa, “giặt giũ” thanh tẩy tâm hồn mình, đã nhiều lần nhà thơ tự vấn. Chỉ có, tự nhận thức, tự thức tỉnh, con người mới quay về đường sáng không mê lạc.
Ở đây, lúc này đầy bóng tối, song cuối con đường kia, nhân loại đã nhìn thấy ánh sáng đang tràn về. Tác giả có niềm tin vào một tương lai sáng. Như quy luật đắp đổi, vận hành của bản thể tự nhiên, đêm tàn, bình minh ló rạng. Và sớm mai, “mặt trời vẫn thức gọi Sài Gòn”. Một hành trình, một nhịp sống mới sẽ bắt đầu; trong họa có phúc, trong âm đã có mầm dương, trong suy tàn đã chứa mầm hồi sinh, trong đêm đại dịch có em bé cất tiếng chào đời: “Lẽ sinh sôi tự nhiên vốn đất trời…/ Như nguồn sáng thiêu tàn đêm đại dịch” (Tiếng chào đời đêm đại dịch); có những sự ra đi, về cõi vĩnh hằng ở phía bên kia, cho phía bên này, “sự sống tái sinh” (Để sự sống tái sinh, Khói hương Đồng Lộc)… Cứ như thế, muôn đời cho vòng quay sinh nở không ngừng tuôn chảy, cho dòng sống trường tồn: “Hoa rơi, nhưng gốc hoa lại tái sinh” (Cây hoa và cây thập tự); “Giữa hoang hoải úa tàn giá lạnh/ Nghe lộc biếc hẹn xuân đang cháy ruột cựa mình” (Nghĩ trong mùa lá rụng).
Ở đây, lúc này có nhiều vùng chết lặng lẽ chìm trong tối tăm, nhưng “chân dung quê mẹ” vẫn lấp lánh những ánh vui, nguồn sáng dẫn lối ta về.
Đọc Nguyễn Đình Minh, có một tình yêu thiết tha văn hóa Việt, một dòng văn hóa Việt thao thức, mải miết chảy dưới trời quê. Sinh thái văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Đình Minh như một “nguồn thiêng”, “vùng thiêng” tựa hồ như một thứ tôn giáo được tôn thờ. Tôi tri nhận như vậy liệu có cường điệu quá chăng? Chưa bị bụi bặm, chưa bị ô nhiễm, miền xanh thẳm đó luôn là một vùng trong. Suối nguồn nguyên thủy ấy nuôi dưỡng “hồn rơm, vía rạ”. Đó là hồn quê – căn cốt văn hóa nội sinh.
Cũng bởi thường trực, đau đáu nỗi lo vong bản văn hóa, thơ Nguyễn Đình Minh có ý thức sâu sắc thức tỉnh văn hóa truyền thống. Ở đâu, lúc nào, tác giả cũng canh cánh nỗi niềm quê mẹ. Nếu thời Nguyễn Bính, chỉ có chút “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” thì thời nay, vía hồn văn hóa đã đang phai nhạt, xa lạc nơi đâu?
Khúc vĩ thanh, nhà thơ tặng độc giả nhiều thi phẩm đẹp về làng quê. Dẫu vẫn nhiều nốt trầm trong những du ca đồng nội đó, song vẫn là vùng bình yên để tâm hồn “đậu xuống quê hương”. Chính sinh quyển văn hóa thôn làng đã thay đổi sắc màu không/ thời gian thơ Nguyễn Đình Minh. Khúc xưa gợi đường về miền văn hóa hiện hữu những giá trị chân, thiện, mỹ.
Trong tâm thức Việt, mẹ là quê hương, mẹ là Tổ quốc. Tâm hồn mẹ làm nên tính cách người Việt, bản sắc văn hóa dân tộc. Chúng ta có một nôi văn hóa mẹ, dòng văn hóa mẹ, văn hóa in đậm tính nữ: “Đất nước toàn những dòng sông cái”. “Ánh quê” bao đời vẫn lấp lánh những buồn vui thương khó của nhân dân, của mẹ, của chị, của người vợ, của người em gái quê mùa, hy sinh, nhân hậu, vị tha… cho ta sức mạnh, niềm tin không quỵ ngã, nuôi mơ ước giữa mịt mù: “Mẹ thân cò lặn lội đêm sông…/ Những lam lũ đói nghèo, vo lửa thành hạt đỗ/…Giữa bóng tối chân mây vẫn có một ngọn đèn” (Ánh quê). Và mẹ đã không bao giờ vơi cạn nguồn thương yêu: “Bất chợt mẹ cho chữ tình chắp cánh/ Để ta bay qua hiểm trở cuộc đời” (Neo đậu ở nhà mình). Đó còn là những người vợ luôn giữ bếp lửa ấm, luôn xây tổ ấm, rộn tiếng vui cười: “Em như loài chim chỉ trút hồn xây tổ/ Hót gọi mùa yêu thơm hương nở nhà mình” (Em là… trái tim anh); đó là những người con gái tuổi thanh xuân “gánh Tổ Quốc trên vai rồi ngã xuống” (Khói hương Đồng Lộc); đó là những chàng trai “dâng máu cho quê hương/ Rồi về làm cây cỏ” (Bài thơ trong ngăn kéo); đó là những người cha “đôi vai gầy gánh một thời lửa máu”, là “cây lúa ven đê, mùa lũ nổi chìm” (Chân dung quê mẹ)…
Có lẽ, rộn ràng mà bình yên, trong trẻo mà nhiều sắc màu mê dụ nhất là bức họa làng quê diễm lệ. Ở đâu, ta cũng thấy thân quen mà vô cùng quyến rũ, mộc mạc mà lãng mạn, bay bổng: Có một “dòng sông dát nắng vàng trưa lấp lóa” ; có bầy trẻ thơ đuổi theo những đốm sáng, hạt đêm khi có “cơn mưa đom đóm” thắp đèn; tháng Ba ơi! Hoa gạo đỏ triền đê; mùa hè gọi “lửa phượng ngời” cho tiếng ve rộn rã; tháng Chạp, ven sông “hoa cải hẹn hò vàng”! “Bất ngờ hương ổi” chín, thơm ngọt cả vườn quê vời vợi hoài niệm tuổi thơ; những bông sen “từ bùn nước…vươn thắm nở” thanh khiết lạ thường; “những chú cá rô lách ngược dòng” trong mưa tháng Ba; vó bè ai cót két giữa khuya vắng, như lời tự sự buồn đêm trăng suông…
Một làng quê ăm ấp tình quê, giàu có vô cùng những sáng tạo văn hóa vật thể và phi vật thể hiện hữu trong thơ Nguyễn Đình Minh.
Tinh thần cố kết cộng đồng làm nên sức mạnh cộng sinh, giúp dân tộc ta chiến thắng kẻ thù ngoại bang và vượt lên thiên họa: “Tình quê kết muôn đời như dây mơ rễ má/ Hồn nước ủ trong ngàn câu chuyện cổ/ Và thơm hoài trong vuông bánh chưng xanh” (Đậu xuống quê hương). Ở đâu đó, “Nghe thì thùng trống hội”, trẻ con, người lớn háo hức tìm về; mẹ ta, chị ta, em ta “mang câu tục ngữ quấn lưng người đi cấy”; bà ta “run run đỡ cả thời viễn cổ”; ở miền Kinh Bắc kia, các liền anh, liền chị cứ đến hẹn lại lên, cùng nhau ca “Năm canh quan Họ”, để mãi còn khắc khoải câu giã bạn; những chàng trai, cô gái đi “Qua mùa hát đúm” để giao duyên, xôn xao những vùng hương trinh nữ; một đêm nghe trống chèo, ta vin áo mẹ đi xem; những ông bồ rau chụm đầu giữ lửa… Một làng quê như thể, sao có thể không yêu, không đau đáu thương về!
3. Thơ Nguyễn Đình Minh nói chung, Ở đây, lúc này nói riêng thuộc dòng thơ thế sự, giàu chất triết lý, giàu suy tư, trí tuệ. Ta thấy đâu đây thấp thoáng những bóng dáng tiền nhân như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, hay một Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần gũi Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… Những lời khuyên của Đức Phật, của Chúa, của Lão Tử cũng ẩn hiện trong những trang thơ. Phía sau những sáng tác là một vốn sống nghiệm sinh, một phông văn hóa đáng trân trọng.
Tác giả khắc họa những hình ảnh, những hình tượng gây ám ảnh mạnh mẽ. Tiêu biểu là hình tượng bóng tối, cái chết.
Những triết lý rút ra từ thơ Nguyễn Đình Minh tiềm ẩn triết lý nhân sinh, thế sự thâm trầm. Hầu như, đó thường là những suy ngẫm từ cuộc nghiệm sinh của chính tác giả khi nhìn sâu vào bản chất đối tượng. Có những triết lý gai người, mà ngỡ như nhà thơ bất ngờ bắt được trong cuộc rượu tỉnh say: “Gần mặt trời cứ ngỡ bếp lửa hồng/ Hóa ra mặt trời rất lạnh (Nghĩ bên ly rượu); có chân lý hiển nhiên, giản dị mà không thể thâm trầm hơn, hiện hữu ngày ngày quanh ta. Vậy mà, khi nhà thơ chỉ ra, ta mới ngộ: thực là chí lý: “Đỉnh núi cao, cỏ còn cao hơn đỉnh” (Người lùn); có những tổng kết ngấm vị chát đắng cuộc đời: “Chỉ nghèn nghẹn dâng nỗi niềm cay đắng/ Bữa cơm không mất tiền, vẫn chỉ có cha cho? (Neo đậu ở nhà mình). Thưởng trà là nhã thú, “Hậu trà”, nhà thơ lắng lại, ngẫm về phận trà và nỗi người. Cả hai có những “tương khí, tương cầu”: “Hay đời thế, để một lần kết ngọc/ Phải xé mình ra quăng quật đoạn trường”(Hậu trà ). Ở nhiều sáng tác, những chiều sâu suy tư, chiều sâu trí tuệ nhận thức đem đến những tứ thơ lạ: Cây hoa và cây thập tự, Những phép cộng có độc, Nhà thương nào cho thơ?… Có những nhan đề thơ đã gợi suy ngẫm, suy tưởng cho độc giả: Mạng nhện, Quả vô thường , Người lùn, Những lỗ đen, Bùa mê vô hình, Tản mạn trong những tập mờ…
Thơ Nguyễn Đình Minh có dạng thức kết hợp từ độc đáo. Đó là kiểu ghép từ “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những từ ngữ chỉ những miền tri thức khác nhau được kết hợp với nhau, tạo “độ vênh” tu từ ngữ nghĩa thú vị. Ví như, những từ thuộc miền tri thức ẩm thực ghép với miền tri thức tinh thần hay cảnh vật: “thơm như một miếng trăng”, “mùi cổ tích”, “mùi góa bụa”,…; những từ thuộc lĩnh vực trừu tượng gắn cùng lĩnh vực vật chất cụ thể: “ mảnh hòa bình”, “mảnh hồn quê”, “mảnh quê”, “mảnh khuya thu”, “quét dọn… tâm hồn”…Cách ghép từ như vậy là phép lạ hóa khách thể thẩm mỹ, chuyển trường nghĩa sang một miền tri thức khác trong cảm nhận độc giả. Chẳng hạn, “miền góa bụa”, chỉ mùi đời cay đắng, cô đơn ; “mảnh hòa bình”, “mảnh hồn quê”, chỉ những giá trị, những cái đẹp nhưng mong manh có thể dễ hư hoại, dễ bị tổn thương.
Nhân hóa là biện pháp nghệ thuật quen thuộc trong văn chương. Song, dưới ngòi bút diệu vợi của Nguyễn Đình Minh, chúng có những linh hồn lạ: “Vầng trăng cong thành dấu hỏi”, “Vầng trăng khuyết hình con mắt”… Những dấu hỏi giữa trời, những con mắt giữa trời đó xoáy sâu vào lòng thế gian những nhức nhối nhân sinh không lời đáp.
Nhân hóa trong thơ nguyễn Đình Minh thường sử dụng những tính từ và động từ mạnh , đánh thức các giác quan và rung cảm thẩm mỹ độc đáo. “chuông nức nở”, “đào rầu rĩ”, “quốc kỳ ủ rũ”, “quốc kỳ bợt bạt”, tiếng mõ “nghẹn ngào”, pho tượng “tức tưởi”.
Ngược lại nhân hóa, nhà thơ “dã thú hóa”, “phi nhân tính hóa” con người: “loài thú đội lốt người”, con người nuôi “trái tim sắt”, con người “không có trái tim”, con người không biết nói tiếng người, “trái tim mù lòa’, con người “hút máu sinh linh”…
Nguyễn Đình Minh ưa thích thể thơ tự do. Hình thức đó tương hợp nội dung thế sự nhà thơ tái hiện; diện mạo thơ gai góc, dữ dội. Đó là thế mạnh riêng, nhưng có thể cũng là giới hạn nào đó, là băn khoăn, nhà thơ từng trăn trở?
*
* *
81 bài thơ Ở đây, lúc này như một thông điệp vừa thách thức vừa thiện lành. Thày trò Đường Tăng (Tây du ký) đã trải qua 81 kiếp nạn trên hành trình để trở về Bến Giác. Trái đất chưa ngừng bom rơi, súng nổ, máu chưa ngừng chảy, môi sinh, văn hóa đang bị hủy hoại, trái tim nhà thơ đau nỗi đau nhân thế. Chúng ta cao vọng có một tương lai “xích lại những đường kinh vĩ tuyến/Hóa năng lượng tình yêu con người”, trẻ em vẽ lên bầu trời cánh chim bồ câu trắng.
Ta trở về bến xưa, bên khúc ru êm đềm “thong thả nhịp làng”, “neo đậu ở bến lòng vùng sáng bình yên”. Nhà thơ có nguôi ngoai nỗi đau đáu tình yêu văn hóa Việt? Trái tim bớt cô đơn, bớt nhói buốt nỗi người? Sẽ không phải xây “nhà thương nào cho thơ”?
Đi giữa hai vùng tối sáng, độc giả bỗng nhận ra những phút giây bình yên kỳ lạ khi lạc vào miền “những dòng thơ tươi xanh”. Trước “những vần thơ lửa cháy”, trái tim không bình yên!

Phố Mới (Bắc Ninh), đầu đông
Tháng 10/ 2022
N.T.N

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder