Truyện Kiều – Nguyễn Du (Phần thứ hai, từ câu 2127 đến câu 2738)


Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện tính hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều cũng là đỉnh cao thơ ca cổ điển của dân tộc. Vì vậy, Truyện Kiều luôn được nhân dân ta yêu mến…
Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện tính hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều cũng là đỉnh cao thơ ca cổ điển của dân tộc. Vì vậy, Truyện Kiều luôn được nhân dân ta yêu mến…
Vanhaiphong.com xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


PHẦN THỨ HAI

GIA BIẾN VÀ LƯU LẠC

(Từ câu 2127 đến câu 2738)

Kiều vào lầu xanh lần thứ hai, gặp Từ Hải và báo ân oán. Hồ Tôn Hiến lập mưu dụ hàng rồi đánh úp giết Từ Hải. Thúy Kiều tự tử ở sông Tiền Đường.

Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình
2130. Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành Hoàng, Thổ Công.
Trước sân, lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên,
2135. Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai,
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140. Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người, định giá vừa rồi,
Mối hàng, một đã ra mười thì buông.
Mướn người thuê kiệu rước nàng,
Bạc đem mặt Bạc, kiếm đường cho xa!
2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150. Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà chán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
2155. Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vần chửa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160. Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình chi?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn, cho rồi ngày xanh.
2165. Lần thu gió mát, trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
2170. Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ
2180. Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng, mà chơi!”
2185. Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
2190. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?”
2195. Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”!
Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200. Cười rằng: ‘Tri kỷ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”
2205. Hai bên ý hợp, tâm đầu,
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Buồn riêng, sửa chốn thanh nhàn,
2210. Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong.
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi, thiếp cũng quyết lòng xin đi”.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Nàng thì chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235. Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa,
Xót thay huyên cỗi, xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời,
2240. Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245. Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
2250. Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương!
Ngất trời, sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen kẻ thuộc chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255. Nàng rằng: “Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!”
Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260. Đồng thanh cùng gửi: “Nào là phu nhân?”
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Cung nga, thể nữ nối sau,
Rằng: “Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.
2265. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan chấp chới, hà y rỡ ràng.
Dựng cờ, nổi trống, lên đàng,
Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270. Nam Đình nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công lên ngựa thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa.
2275. Cười rằng: “Cá nước duyên ưa!
Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”
Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ,
2280. Cũng may dây cát được nhờ bóng cây!
Đến bây giờ mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày một hai!”
Cùng nhau trông mặt cả cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285. Tiệc bày thưởng tướng, khao binh
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Trong quân có lúc vui vầy,
2290. Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
”Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương,
Tấm thân rầy đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân, oán đôi đàng chưa xong”.
2295. Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân, tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
2300. Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri,
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy.
Đạo trời, báo phục chỉn ghê,
2310. Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.
Quân trung gươm lớn, dáo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi .
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315. Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: “Ân, oán hai bên,
2320. Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh”.
Nàng rằng: “Nhờ cậy uy linh,
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
Báo ân rồi sẽ trả thù”.
Từ rằng: “Việc ấy để cho mặc nàng”.
2325. Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ run.
Nàng rằng: “Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm, Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330. Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái, tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau!
2335. Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu, cho vừa!”
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
Lòng riêng mừng, sợ khôn cầm,
2340. Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai.
Mụ già, sư trưởng, thứ hai,
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên,
Dắt tay, mở mặt cho nhìn:
Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi!
2345. Nhớ khi lỡ bước, sẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!”
Hai người trông mặt tần ngần,
2350. Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui .
Nàng rằng: “Xin hãy rốn ngôi,
Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!”
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
2355. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoạt trông, nàng đã chào thưa:
”Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
2360. Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!”
Hoạn Thư hồn lạc, phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca .
2365. Rằng: “Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
2370. Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời,
2375. Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thời nên,
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay”.
Tạ lòng lạy trước sân mây,
2380. Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào.
Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta!
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh;
2385. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?”
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi thịt nát tan tành,
2390. Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời!
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương!
2395. Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi.
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội vã gởi lời từ quy.
Nàng rằng: “Thiên tải nhất thì,
2400. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?”
Sư rằng: “Cũng chẳng bao lâu,
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405. Nhớ ngày hành cước phương xa,
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri,
Bảo cho hội ngộ chi kì,
Năm nay là một, nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
2410. Đã tin điều trước, ắt nhằm điều sau .
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì?”
Nàng rằng: “Tiền định tiên tri,
Lời sư đã dạy, ắt thì chẳng sai.
2415. Họa bao giờ có gặp người,
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân”.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ, thoắt đã dời chân cõi ngoài.

 

Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn

Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân, lạy trước Từ Công:
”Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425. Khắc xương ghi dạ, xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!”
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
2430. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân!
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
2435. Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh, nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,
2440. Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài .
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo, túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ, ai dám tranh cường,
2450. Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.
2455. Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân, làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc, sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
2460. Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gửi trước trung quân,
Từ Công riêng hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!
2465. Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
2470. Sức này, đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thời thật dạ tin người,
Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu.
2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái, thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ, hãi hùng cỏ hoa.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: “Trong Thánh trạch dồi dào,
2490. Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao!
Ngẫm từ gây việc binh đao,
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
2495. Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng, quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?”
Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh;
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ Công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
2510. Lễ nghi dàn trước, bác đồng phục sau.
Từ Công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ Công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ.
2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh, liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần,
2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá, vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời.
Quan quân truy sát đuổi dài.
Ầm ầm sát khí, ngất trời ai đang.
2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa,
2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!”
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên.
2535. Lạ thay oan khí, tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra!
Quan quân, kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
2540. Hồ Công thấy mặt, ân cần hỏi han.
Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách, nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường,
Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?”
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Rằng: “Từ là đấng anh hùng,
2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
Tin tôi, nên quá nghe lời,
Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
Ngỡ là phu quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555. Năm năm trời biển ngang tàng,
Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
Khéo khuyên kể lấy làm công,
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
2560. Sống thừa, tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh”.
Hồ Công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
2565. Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu .
Một cung gió thảm, mưa sầu,
2570. Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm, vượn hót, nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu .
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán, nghìn sầu, lắm thay!”
2575. Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ .
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”
Nghe càng đắm, ngắm càng say,
2580. Lạ cho mặt sắt, cũng ngây vì tình!
Dạy rằng: “Hương lửa ba sinh,
Dây loan xin nối cầm lành cho ai?”
Thưa rằng: “Chút phận lạc loài,
Trong mình nghĩ đã có người thác oan,
2585. Còn chi nữa, cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may”!
Hạ công chén đã quá say,
2590. Hồ Công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống, người ta trông vào.
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này biết tính thế nào được đây?
2595. Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài,
Lệnh quan, ai dám cãi lời,
Ép tình mới gán cho người thổ quan.
Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
2600. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
2605. Đành thân cát dập, sóng vùi,
Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh!
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào!
Duyên đâu, ai dứt tơ đào,
2610. Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay?
Thân sao, thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
2615. Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
2620. Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
”Đạm Tiên, nàng hỡi, có hay!
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta”.
2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau.
Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao, sông rộng, một màu bao la.
Rằng: “Từ Công hậu đãi ta,
2630. Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời, dưới sông!”
2635. Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang.
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thời đà đắm ngọc, chìm hương mất rồi!
Thương thay cũng một kiếp người,
2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân!
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
2645. Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực, dương hồi, khôn hay .
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
Giác Duyên từ tiết giã nàng,
2650. Đeo bầu quảy níp, rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
”Người sao hiếu nghĩa đủ đường?
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?”
2655. Sư rằng: “Phúc họa đạo trời,
Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc, Tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo, khôn ngoan,
2660. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ Tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.
2665. Ma đưa lối, quỷ đem đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn nọ, đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng, gươm trần,
2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước dẫy, sóng dồi,
Trước hàm rồng cá, gieo mồi Thuỷ Tinh.
Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết, một mình mình hay.
2675. Làm cho sống đọa thác đầy,
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!”
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
”Một đời nàng nhẽ thương ôi còn gì!”
Sư rằng: “Song chẳng hề chi,
2680. Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685. Hại một người, cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên, trời cũng chiều người,
2690. Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền đường thả một bè lau rước người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!”
2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường,
Đánh tranh, chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
2700. Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quảng mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705. Ngư ông kéo lưới, vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt thướt áo là,
Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế, hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: “Tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715. Chị sao phận mỏng, đức dày,
Kiếp xưa đã vậy, kiếp này dễ ai!
Tấm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Một niềm vì nước, vì dân,
2720. Âm công cất một đồng cân đã già?
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào!”
2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên?
2730. Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng.
2735. Bốn bề bát ngát xa trông,
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.

N.D

________
Ghi chú:

2130. Chú ý do cách ngắt nhịp tương đối nhặt ở câu tám(2-2-2-2) và do cách dùng chủ ngữ ẩn với rất nhiều động từ, Nguyễn Du đã vẽ ra một cảnh tượng náo nhiệt, bận rộn ở nhà họ Bạc để tả cảnh đám cưới.

2132. Thành hoàng thổ công: các thần coi giữ một địa phương..

2134. Lễ tơ hồng: tức là Nguyệt Lão, vị thần xe dây cho người nên vợ nên chồng.\

2135. Thành thân: thành vợ thành chồng.

2139. Hành viện: Tên gọi khác của nhà chứa.

2151. Theo nhà thuật số đời xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm đĩ.

2157. Hồng quân: chỉ con tạo. Hồng quần: cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.

2162. Câu này ý nói cuộc đời người con gái đẹp (chỉ Thúy kiều) đã quá nửa thì long đong gian khổ vì phải đền tội lỗi mà nay lại phải bước vào vòng lao khổ.

2164. Mặt phấn: mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.

2166. Biên đình: nơi biên ải xa xôi.

2167. Râu hùm, hàm én, mày ngài: tướng mạo khác thường, hùng vĩ của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày rậm và to như con tằm (khác với mày ngài của người phụ nữ tả ở trên, nét ngài là lông mày thanh và cong giống như mày con ngài).

2196. Anh hào: anh hùng hào kiệt, hạng người khác thường.

2170. Côn: món võ đánh bằng gậy. Quyền: môn đánh võ bằng tay.

Tam lược: mưu lược và các dùng binh, do chữ Lục thao, Tam lược là hai pho Binh thư đời xưa mà ra.

2172. Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.

2176: Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường, có câu thơ: Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy (chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gầm trời, chi một mái chèo mà đi khắp cả non sông). Ý nói khí phách anh hùng.

2176. Tấm lòng nhi nữ: tấm lòng Thúy Kiều, tâm sự đau đớn và tấm lòng kiên trinh của Thúy Kiều.

2179. Tâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Cấu này ý nói: Từ Hải nói với Kiều là muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.

2182. Mắt xanh: Nguyễn Tịch đời Tấn, trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói: Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?

2184. Cá chậu chim lồng: chỉ hạng người tầm thường, sống trong vòng giam hãm, câu thúc.

2192. Bình Nguyên Quân: chính tên là Triệu Thắng, một trọng thần nhà Triệu, đời Chiến quốc được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: Vị tri can đảm hướng thuỳ thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân, nghĩa là chẳng biết gan mật hướng vào ai, khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên Quân. Ở đây nhân Kiều nói đến gửi can trường nên Từ Hải lại nhớ đến Bình Nguyên Quân.

2196. Tấn Dương: tên đất, nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tuỳ, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói: Thuý Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.

2200. Tri kỷ: người hiểu biết mình.

2202. Trần ai: bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vị gì để phân biệt với người thường.

2204. Muôn chung: do chữ vạn chung, muôn hộc thóc. Nghìn tứ do chữ thiên tứ, nghìn cỗ xe, dùng chỉ cảnh giàu sang.

2205. ý hợp tâm đầu: tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.

2208. Nguyên ngân: số tiền bỏ ra khi trước. Phát hoàn: đưa trả lại.

2210. Bát tiên: Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Li Thiết Quái, Lam Thái Hoà, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.

2212. Sánh phượng, cưỡi rồng: xưa Kính Trọng, người nước Tần, được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: Phượng hoàng vu phi… (Chim phượng hoàng cung bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yên, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thuý Kiều đẹp duyên với nhau.

2214.Trượng phu: ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.

Động lòng bốn phương: ý chí muốn bay nhảy, tung hoành khắp mọi nơi để lập sự nghiệp của người con trai.

2219. Tâm phúc tương tri: biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.

2220. Nữ nhi thường tình: cái tính thông thường của đàn bà, con gái.

2222. Chiêng: tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.

2224. Nghi gia: do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh Thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. Ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.

2230. Bằng : Một loại chim rất lớn. Sách Trang Tử có câu Bằng chi tỉ ư Nam minh dã, đoàn phù dạo nhi thướng giả cửu vạn lý (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.

2235. Kinh thi có câu: Duy tang dữ tử, tất cung kính chi. (Cây tang, cây tử do cha mẹ trồng ra,nê phải kính trọng). Người đời sau dùng hai chữ tang tử để chỉ quê nhà.

Hán Cao tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua cớ về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà. Ở đây hợp với chữ ấy thành tử phần để chỉ quê nhà.

2236. Thơ Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại? Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu? Ở đây mượn ý câu thơ ấy cũng là ý nói Kiều nhớ nhà.

2242. Câu này ý nói : Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng vì như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.

2245. Cố quốc tha hương: có nghĩa là quê nhà đất khách.

2247. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời: chỉ Từ Hải đương tung hoành nơi xa xôi.

2250. Lửa binh: do chữ binh hoả nghĩa là giặc giã.

2251. Sát khí : cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao, sát phạt.

2252. Kình ngạc : hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ giặc giã.

Giáp binh: áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.

2260. Phu nhân: tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quí. Đây chỉ Thuý Kiều.

2263. Cung nga: gái hầu trong cung, cung nữ.

Thế nữ: loại gái hầu kém cung nữ một bậc. Ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương.

2265. Phượng liễn loan nghi: xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng.

2266. Hoa quan: mũ hoa.

Hà y: áo mầu hồng như ráng mặt trời..

2269. Hoả bài: cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin.

2270. Nam Đình: chưa thực rõ nghĩa. Có bản giải là triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra.

Đại doanh: doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải.

2272. Thân nghênh: ở đây nói Từ Hải đich thân tự mình ra đón Thúy Kiều.

2273: Cân: khăn (mũ); đai: cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương.

2275. Cá nước duyên ưa: do câu ngư thuỷ duyên hài, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau.

2284. Trướng mai: trướng có thêu hoa mai, chỉ phòng ngủ của vợ chồng.

2287. Vinh hoa: lúc giàu sang, sung sướng.

2290. Hàn vi: đói rét, nhỏ mọn, ý nói thuở còn gian nan, khổ cực.

2297. Nghiêm quân: chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.

Tuyển tướng: lựa chọn tướng tá.

2298. Ruổi sao: do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.

2299. Ba quân: danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa quân đội các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.

2302. Chiếu danh tầm nã: chiếu theo tên mà tìm bắt từng người.

2303. Lệnh tiễn: cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.

2307. Thệ sư: lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.

2308. Chấp uy: chấp hành uy lệnh.

2309. Báo phục: báo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.

2312. Cơ, vệ: tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.

Thị lập: đứng hầu.

Song phi: dàn làm hai hàng.

2314. Bác đồng: tức đồng bác, chỉ chung khí giới.

2315. Trướng hùm: dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ “hổ trướng” để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.

Trung quân: đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.

2318. Cửa viên: viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường chồng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là “viên môn”.

2326. Chàm đổ: mặt xanh như màu chàm đổ vào.

Giẽ run: mình run như chim giẽ.

2329. Sâm và Thương: hay còn gọi là sao hôm và sao mai, chính ra là Kim tinh, một hành tinh đi trong quỹ đạo trái đất, nhưng người xưa nhận lầm  là một ngôi mọc ở phương đông, một ngôi mọc ở phương tây, sao này mọc, sao kia lặn, hai sao không bao giờ gặp nhau. Vì vậy xưa thường dùng hai chữ Sâm Thương để chỉ sự cách biệt.

2334. Tục ngữ: kẻ cắp gặp bà già, ý nói một kẻ ranh ma, quỷ quái nay lại bị trừng phạt.

2341. Mụ già: chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.

Sư trưởng: chỉ Giác Duyên.

2348. Phiếu mẫu: bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu Mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.

2353. Hiến phù: dâng nộp những người bắt được.

2354. Hậu tra: chờ để tra xét.

2356. Chính danh thủ phạm: tên phạm tội nặng nhất, đứng đầu các tên khác.

2367. Khi các viêt kinh: lúc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra Quan Âm các nhà Hoạn Thư để viết kinh, thôi không đày đọa bắt làm hoa nô nữa.

2377. Tri quá: biết lỗi, từ mình biết nhận rằng mình có lỗi.

2387. Nội đao: quân đao phủ, chuyên việc chém giết người có tội.

2388. Gia hình: trị tội về thể xác.

2395. Pháp trường: chỗ để hành hình người có tội.

2396. Thanh thiên bạch nhật: trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được chứng kiến.

2398. Từ quy: từ giã ra về.

2399. Thiên tải nhất thì: ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.

Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là gặp gỡ, trò chuyện.

2404. Hạc nội: chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. Ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.

2405. Hành cước: đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.

2406. Tiên tri: biết trước mọi việc chưa xảy ra.

2407. Hội ngộ chi kỳ: cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.

2409. Tiền định: đã định sẵn từ trước.

2416. Chung thân: trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.

2425. Khắc xương ghi dạ: do chữ minh tâm khắc cốt: Ý nói ơn sâu của Từ, Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.

2426. Nghì trời mây: ơn nghĩa cao cả như trời mây.

2427. Quốc sĩ: kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.

2430. Cổ ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.

2432. Thâm tạ: tạ ơn một cách sâu sắc.

Tri ân: biết ơn của người khác đối với mình.

2434. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;

Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt, người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.

2438. Tẩy oan: rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.

2439. Trúc chẻ: chẻ cây trúc; ngói tan: ngói sụt vỡ; chẻ trúc chỉ sau một vài đốt thời cả cây tách ra dễ dàng, ngói sụt cũng vậy. Ý nói Từ Hải thừa thắng đánh đâu được đấy.

2440. Bình uy: uy thế của quân đội. Câu này ý nói: uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy.

2444. Huyện thành: thành trì của một huyện. Câu này ý nói: quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía Nam Trung Quốc.

2446. Giá áo túi cơm: cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm, ý nói người vô dụng hèn kém.

2448. Cô và quả (tức quả nhân): tiếng tự xưng của vua chúa đời xưa. Bá Vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói: Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai.

2449. Tranh cường: đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói: trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại.

2450. Hùng cứ: lấy sức mạnh mà chiếm giữ.

Hải tần: đất ven biển.

2452. Kinh luân: nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.

2453. Đẩy xe: do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.

2454. Tiện nghi bát tiễu: tuỳ tiện mà đánh đẹp.

Đổng nhung: trông coi, đốc suất việc quân.

2457. Chiêu an: kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.

2466. Chú ý trong bốn câu:”Một tay gây dựng… Hàng thần lơ láo”, Nguyễn Du đã sử dụng rất tài tình hai hoán dụ “Một tay” và “Bó thân”.

2485. Chiếc bách: do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.

2489. Thánh trạch: ơn thánh, ý nói ơn vua.

2491. Bình thành: do chữ địa bình thiên thành Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.

2494. Vô định: tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết. Đường Thi có câu: Khả liên Vô Định hà biên cốt, da thịt thâm khuê mộng lí nhân, nghĩa là: Thương thay nắm xương khô bên sông Vô Định còn là người trong giấc mộng của kẻ cửa các phòng khuê.

2496. Hoàng Sào: một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.

2502. Thúc giáp: bó áo giáp lại.

Giải binh: cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.

2530. Thành hạ yêu minh: cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.

2506. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.

2507. Quyết kế thừa cơ: quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.

2508. Lễ tiên bình hậu: phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công.

Khắc cờ: ấn định kỳ hạn.

Tập công: đánh úp.

2509. Chiêu phủ: kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng.

Tiên phong: toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ “chiêu phủ” đi trước.

2512. Đại quan lễ phục: ăn bận theo phục sức của vị quan lớn.

2529. Trí dũng: trí khôn và sức mạnh.

2533. Dòng thu: đây là chỉ nước mắt.

2535. Oan khí tương triền: cái khí oan ức vấn vít lại với nhau. Câu này ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như hồn linh có sự linh cảm với nhau.

2542. Binh cách: binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.

2543. Thành toán miếu đường: mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.

2552. Bách chiến: trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.

2553. Phu quí phụ vinh: chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển.

2561. Tiện thổ: miếng đất xấu.

2564. Cảo táng: chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: cũng như di hài.

2565. Hạ công: mừng công (thắng trận).

2567. Thị yến: hầu hạ bên bàn tiệc.

2580. Mặt sắt; do chữ thiết diện, mặt đen cứng rắn như sắt, thường mượn chỉ một vị quan cương trực, nghiêm nghị. Ở đây, Nguyễn Du dùng với ý xấu; điều đáng lấy làm lạ là một con người không còn tâm hồn tình cảm như Hồ Tôn Hiến mà cùng “ngây vì tình”.

2581. Hương lửa ba sinh: hương lửa: do chữ hương hỏa. Tục xưa khi làm lễ thề ước với nhau thường đốt đèn hương. Về sau hai chữ lửa hương, thường dùng chỉ tình duyên vợ chồng. Hương lửa ba sinh: thề ước êu nhau, lấy nhau suốt ba kiếp.

2582. Dây loan: tức keo loan, thứ keo thường dùng để gắn phím đàn, dây cung. Sau người ta thường dùng chữ này nói về việc hàn gắn tình nghĩa cũ. Chú ý lời nói trơ trẽn bỉ ổi của Hồ Tôn Hiến, hắn dỗ dành Kiều để hắn thay Từ Hải nối duyên vợ chồng với Kiều.

2586. Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua nước Tề, sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ trong đó có câu: Dục tri tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền (muốn biết tơ lòng tan nát, nên xem cái dây trên đầu gối). Nguyễn Du mượn ý này để nói lòng Thúy Kiều đã tan nát, không còn thiết tha gì đến tình duyên hạnh phúc nữa.

2591. Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước, thường dùng để chỉ các ông quan cai trị một địa phương.

2596. Công nha: chỗ làm việc quan, cũng như công môn đường v.v.

2598. Thổ quan: cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.

2599. Đa đoan: nhiều mối, nhiều việc, ý nói rắc rối, lôi thôi.

2609. Tơ đào: cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: “Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?”. Nợ đây tức là việc “Ép tình mới gán cho người thổ quan”.

2619. Triều: nước thuỷ triều. Ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.

2621. Thần mộng: lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao, lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: “Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.

2625. Tiên hoa: do chữ hoa tiên, tờ giấy vẽ hoa, chuyên dùng để viết thư.

2626. Tuyệt bút: bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.

2627. Cửa hồng: cửa thuyền.

Rèm châu: rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.

2635. Con nước: tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.

2638. Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.

2646. Âm cực dương hồi: khi khí âm đến hết mực thì khí dương lại trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.

2650. Bầu: quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước.

Níp: cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa.

Vân du: danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.

2655. Phúc hoạ đạo trời: nói người ở đời gặp phúc hay gặp hoạ đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.

2668. Thanh lâu: gái điếm. Thanh y: gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.

2670. Hùm sói: người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Ở đây ám chỉ Kiều phải gửi thân vào Từ Hải.

2680. Nghiệp duyên: danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.

2681. Tội nghiệp: cái nghiệp đầy tội lỗi (theo quan niệm nhà Phật).

2683. Tình thân: Do câu phụ tử tình thân. Câu này ý nói: Thuý Kiều đền bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.

2687. Thửa công đức: do chữ kì công đức, nghĩa là công đức ấy.

2688. Túc khiên: tội lỗi kiếp trước.

2697. Thảo đường: nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.

2699. Ngư phủ: người làm nghề chài lưới.

2703. Duềnh ngân: dòng nước bạc.

2705. Ngư ông: ông lão đánh cá, tức “ngư phủ” nói trên.

2711. Phách quế hồn mai: do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ “quế mai” ở đây chỉ có ý thêm thắt dùng cho đẹp lời văn.

2720. Âm công: công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết, cũng gần như nói âm đức.

2722. Thơ đây là nói mười bài thơ Đoạn trường do Đạm Tiên đưa Kiều vịnh khi trước.

2732. Thảo lưu: nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.

(Theo bản Truyện Kiều – NXB Giáo dục 1984)

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder