Về một người mẹ, về một người con và dòng sông Trà Lý – KIm Chuông


Trong một nỗ lực nhằm đẩy mạnh biên độ hỗ trợ các hoạt động sáng tác và tăng cường công tác kết nối hội viên… Mới đây Hội Nhà văn Hải Phòng đã chọn nhà thơ Kim Chuông cùng tập thơ “Về một người mẹ, về một người con và dòng sông Trà Lý” làm tâm điểm của chương trình “Bàn tròn Văn chương” tháng 8/2017. Đây là tập thơ của nhà thơ Kim Chuông vừa trao giải Ba cuộc thi viết về đề tài “Những người có công với cách mạng và 70 năm ngày Thương binh, Liệt sĩ” do Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động, TB và XH phối hợp tổ chức.

VHP xin trích giới thiệu cùng bạn đọc.

Trong một nỗ lực nhằm đẩy mạnh biên độ hỗ trợ các hoạt động sáng tác và tăng cường công tác kết nối hội viên… Mới đây Hội Nhà văn Hải Phòng đã chọn nhà thơ Kim Chuông cùng tập thơ “Về một người mẹ, về một người con và dòng sông Trà Lý” làm tâm điểm của chương trình “Bàn tròn Văn chương” tháng 8/2017. Đây là tập thơ của nhà thơ Kim Chuông vừa trao giải Ba cuộc thi viết về đề tài “Những người có công với cách mạng và 70 năm ngày Thương binh, Liệt sĩ” do Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động, TB và XH phối hợp tổ chức.

VHP xin trích giới thiệu cùng bạn đọc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I. NGƯỜI MẸ

Người Mẹ ấy

Chưa già lắm

Mái tóc đã thưa dần

Hai đuôi mắt nét hoa văn dàng dịt.

Một sớm mùa thu hai mươi năm về trước

Mẹ sinh đứa con trai

Chưa xa lắm – Sớm nay

Mẹ không muốn nói nhiều về khoảng giữa

Người tiễn con ra chiến trường sớm nay cũng chính là mẹ đó. Khi phía trước cuộc đời tiếng gọi lớn lao hơn.

 

Mẹ nắm tay con.

Vuốt lên mái tóc con.

Cái tay áo nâu có miếng vá khác màu vẫy vẫy.

Mẹ thấy thân thể mình xẻ đôi, gửi vào người con tới những phương trời bừng bừng lửa cháy.

Mẹ nối góc sân nhà với Đất nước trăm miền qua những bước chân con.

 

Chú bé cò hương!

Chú bé ham ăn nhai tướp hai đầu vú. Mẹ như bóng cò bên dòng sông Trà Lý. Đời xưa buồn như

những ngày nước cầm ngồi trước hiên nhà nhìn ra biển nước mênh mông. Lận lội sớm chiều

nước ăn loét kẽ chân. Cáu chua bám vàng tay áo. Bắt cáy, mò cua, cuộc đời tần tảo.

 

Niềm vui trông vào chiếc giỏ thắt ngang lưng… Những tháng năm này như thế

Mẹ nuôi con

 

Bàn tay mẹ là chiếc nôi đong đầy gió mát. Đời nghèo nhưng vẫn dành tiếng ru ngọt ngào đủ để

cho con chợp mắt. Mẹ phải mớm con bằng củ khoai lang mót dưới rãnh cày, vẫn thức đủ mười

đêm ròng khi trán con đỏ mồ hôi hạt.

 

Chỗ khô đặt con, mẹ nằm chỗ ướt

Con là khúc lòng của mẹ dứt ra

Lòng mẹ như tia nắng ngày xa

Đời con là tâm trạng mẹ

Không có nỗi vui buồn nào xung quanh

Đất nước – cuộc đời không ngấm qua lồng ngực mẹ.

Con đã uống vào dòng sữa ấy con ơi!

 

Khi con lọt lòng ra đã bắt gặp niềm vui

Đất nước như liều thuốc an thần sống lại bao cơ thể. Căn nhà gianh mẹ đang nằm, cả đứa con

mẹ đẻ ra đã thực sự là của mẹ.

Những gì đất nước mang về lại có cả phần con.

 

Với Mẹ – con không còn hoàn toàn là một đứa con riêng. Khi ngọn rau khoai lang mẹ hái ven đê

sông Trà, hạt lúa gieo trên đồng Dô, đồng Khuốc … cũng là của Việt Nam giành được, thì chúng

ta là những tế bào. Đất Nước – Con người là cơ thể lớn lao.

 

Đất nước đi như quả ngọt chuyền tay.

Niềm vui đang chín lên, nhưng niềm vui chưa tròn trặn. Từ buổi con nằm trong nôi đến lúc lớn lên,

mười năm, hai mươi năm… đất nước vẫn nối nhau tiếng súng. Bao giặc Thù không đội trời

chung. Đất nước Việt Nam ở trong máu, trong tim. Ở trong tay cha truyền sang tay con, ở thân

thể con sẻ ra từ thân thể mẹ…

 

Và, sớm nay – như thế

Người mẹ gửi đi đứa con máu thịt của mình Khi tiếng súng diệt thù sôi lửa khắp non sông.

 

 

II. NGƯỜI CON TRAI

 

Người con trai

Nhập vào một đoàn quân

Quân hàm binh nhì.

Tên bình dị anh là người chiến sĩ.

Đáng lẽ, thế hệ anh hoàn toàn là thế hệ tình yêu. Lứa tuổi anh là những nhịp cầu, Đất nước trông

chờ bắc qua nhiều mơ ước Ví như, một sớm nắng mặt trời nhô lên cũng của nền khoa học.

 

Nhưng anh phải đi

Một con đường vòng rất hệ trọng đến đời ta

Cuộc hành trình vai một chiếc ba lô, khẩu tiểu liên vươn dài trước ngực.

Anh giống như trăm ngàn đồng đội khác, nhưng vẫn có riêng gia tài của đời người chiến sĩ mang theo.

 

Anh sinh ra ở một làng có cái tên hơi cổ: Khai Lai.

Cây đào trước cửa nhà cùng tuổi anh , những đêm ngắm vầng trăng tan trong vòm lá.

Anh ngồi xem vết sên bò với cô gái trẻ, nghe mẹ kể về chiếc hầm ngầm dưới gốc cây đào ngày

kháng chiến đánh Tây

Tiếng đại bác kẻ thù đã giết chết người cha.

Cuộc chia ly dội lên đầu anh khi anh còn nằm trong bào thai của mẹ. Khi biết mở mắt nhìn đời mẹ

anh lại kể, con từ nôi Đất Mẹ lớn lên.

Mẹ nghe nhiều người đã khéo ví von:

Mẹ là Đất Nước.

Con như Nhân quần…

Hay ví gần một chút.

Gia đình ta là một biểu tượng này.

 

Người con trai còn mang đi hôm nay

Con ngòi cạn ròng, những chiều quên mặt trời câu cá loi choi bằng lông đuôi bò bên rạch nước.

Đêm cày đồng, một đêm mưa rốc két.

Tiếng đại bác từ hạm tàu địch câu lên ran ran bờ biển Thái Bình. Ngôi trường cháy lan vào lòng

tuổi nhỏ. Những cuộc chia tay bạn bè ra đi thắp lòng anh rực lửa.

Và lượt anh lên đường!

 

Anh đã đi qua khắp nẻo chiến trường Sóc Bom Bo, A Vầu, Cổng Trời, Dốc ngựa…

Anh tìm giặc qua bãi bom, khu mìn vướng…

Những hàng rầo thép gai như mắt lưới chặn đường.

Anh thường mơ một ngày không xa lắm.

Khi ngõ hẻm, đường quê bóng quân thù tắt ngấm. Anh sẽ trở về giữa dòng nguời chiến thắng.

Rồi, sau một chuyến tàu nào vui lắm.

Anh qua phà Tân Đệ, đi dọc đê sông Hồng, sông Trà Lý… lối quen xưa.

Câu đầu tiên anh gọi mẹ rất ngây thơ.

Anh nhìn rất lâu mái tóc mẹ bạc phơ.

Anh tìm gặp bà con thân thương đầu làng, cuối xóm.

Lúc ấy, anh muốn hát to lên như ngày nào đi dọc đường làng hô vang khẩu hiệu.

Anh chạy ra bãi nổi xem bóng mình ngày xưa trát phù sa lên người nằm phơi nắng thả lờ đơm.

Anh xuống đồng gặt lúa với xã viên.

Anh tìm gặp cô gái ghi nhật ký về anh trong đêm xi-nê phố huyện…

Bao ước mơ có gương mặt, dáng hình cứ dồn anh vượt lên đầu trận tuyến. Bởi đánh quân thù là

sự nghiệp tình yêu.

Ngày tháng này, ngày tháng bao nhiêu?

Tuổi trẻ có bao giờ đẹp thế!

Và, đẹp nhất là cuộc đời chiến sĩ.

Mang quê hương – Đất nước giữa tim mình, tìm diệt quân thù khắp đầu núi ngọn sông…

 

Đừng tính đầu trận đánh kể chiến công

Đã mấy chục lần anh trở thành dũng sĩ, và mấy trăm lần những bốt đồn boongke đắp bằng đô la

Mỹ, anh đã cùng đồng đội xoá tan!

 

Rồi, một đêm trên điểm chốt 800

Tiểu đội anh chỉ còn ba chiến sĩ

Mà trước mặt là tiểu đoàn giặc Mỹ

Thế trận giao tranh trên một sườn đồi. Ba ngày đêm cơm vắt đã hết rồi. Bi đông cạn không còn

giọt nước, cả khuôn mặt cũng sạm đen màu đất…

Chỉ có trái tim mang ngọn lửa rực hồng,

Và lời thề Lời thề trước Non sông.

 

Phút bình yên giữa hai đợt tấn công.

Anh bất chợt nhớ về quê mẹ. Những kỷ niệm bên sông Trà thuở bé, khi đứng trước chiến trường

rực lửa. Có một điều rất lạ. Anh cảm thấy lòng mình thanh thản thế. Điều anh lo hơn là “Tuổi mẹ –

Quê nhà,” những cánh đồng mưa đông, nắng hạ. Giữa đồng đội anh thấy mình vui quá, dẫu biết

tuổi trẻ phải đi đầu mọi thử thách, hy sinh…

 

Tiếng súng nổ thình

Kỷ niệm vụt hoá thành tiéng gọi

Điểm chốt giống như hòn than đỏ chói.

Tình huống dồn căng.

Tiểu đội ngã rồi

Chỉ còn lại mình anh.

“Một thắng hai mươi, một thắng một trăm”…

Anh là người phải trả lời cái yếu tố giành về phần thắng.

 

Anh bắn tỉa, bắn dồn

Ném lựu đạn,

Đứng , quỳ và bắn!

Linh hoạt mà dùng lối đánh nghi binh.

 

Quân giặc bủa giăng.

Dàn hàng ngang chúng lấn dần từng bước.

Tình huống thứ bao nhiêu

không nhớ được.

Chỉ biết,

Quả đạn cuối cùng

trong tay anh đã mở màn đúng lúc…

Khi Sư đoàn xông lên

Và anh đã bị thương!

 

Nằm điều trị anh cồn cào nhớ về mặt trận,

Nhưng đơn vị anh đã đi xa,

Quả đồi này đã mở đường cho lớp lớp

binh đoàn

chiến thắng đi qua.

Họ gọi tên quả đồi, tên chiến công bằng tên anh, người chiến sĩ chưa một lần biết mặt.

Họ nghiêng mũ chào anh, cái tên đã hoá thành lời hát.

Nhưng anh đang nghĩ gì

Người chiến sĩ thân yêu?

Khi quê nhà một buổi chiều vui.

Mẹ già nhận ra anh trên một tờ báo Đảng.

Mẹ cười, nhưng nước mắt cứ chảy qua

những nếp nhăn trên khuôn mặt gầy

giữ bao năm tháng

Mẹ đọc chiến công và ngắm bóng hình anh.

Một đứa con

Người thương binh

Một chiến sĩ anh hùng

 

Mẹ nhớ

Một sớm thu xa

Tuổi anh sinh cùng đất nước. Chiếc đòn gánh quẩy anh chạy tản cư đêm nào nghe kẽo kẹt. Từ

đó ư? Anh đã bước vào đời! Thời gian và chiến công là tấm gương soi đẹp nhất mặt nguời.

Anh chiến sĩ trên đường đi cứu nước.

Vì chân lý “Tự do, độc lập”…

Anh vẫn đi trong bão táp chuyển rung.

Vào một sớm xuân trên thành phố anh hùng.

Thành phố Sài Gòn,

Thành phố mang tên Bác.

 

Nơi cả nước bước lên điểm chốt.

Nơi non sông chờ đợi phút đổi đời Chiến dịch Hồ Chí Minh, phút lịch sử đến rồi. Anh nhập giữa

cuộc hành quân thần tốc.

Ý thơ cuối cùng trong lời Di chúc,

đang bay lên như những cánh sao vàng.

Chào Sài Gòn!

Anh là người trong những binh đoàn đang tiến về giành tuyệt đỉnh vinh quang!

 

 

III. VÀ DÒNG SÔNG TRÀ LÝ

 

Dòng sông Trà

Hay muôn nghìn dòng sông nào đó không tên.

Những dòng sông chảy qua những ngôi nhà, phù sa mang chất ka li về nuôi bến bãi.

Khúc sông này không có tên riêng, cũng giống như người mẹ và người con trai kia sao quá thân

thương, gần gũi.

 

Chỉ biết:

Truyền thuyết dòng sông Trà là truyền thuyết cuộc đời người có thực. Người mẹ và người con

trai đã soi nhìn tất cả những gì qua sông Trà – bóng nước. Họ uống nước sông Trà, đuổi cáy, câu

tôm trên bãi vắng. Bà mẹ chở đò đi lấy huyện , người con trai tòng quân cũng qua sông Trà ra

tiền tuyến. Họ đứng đấy nhìn về bốn hướng.

Nghe dòng sông tải sóng vỗ vào lòng.

 

Và, người con trai ra đi, đã lớn lên với đất nước anh hùng. Tháng năm ấy họ nhìn ra tất cả. Dòng

sông Trà vẫn ngày đêm cần cù mang phù sa đắp bồi lên đôi bờ xa mãi.

Và dòng sông Trà vẫn là nơi bắt đầu và nơi dẫn tới. Từ bến nhỏ – Nơi có những ngôi nhà đến

những con sóng dài biển cả lớn lao kia!

 

Kỷ niệm 30 năm, ngày giải phóng Sài Gòn

Quê Trạng Trình, Vĩnh Bảo, Hải Phòng

Tháng 30/4/2005

 

K.C

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder